TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 97/2021/HSST NGÀY 21/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 90/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021, theo quyết định đưa ra xét xử số 97/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Bùi Nho T, sinh năm 1983; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện L, thành phố Hà Nội; Quốc Tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ tên bố: Bùi Nho C; Họ tên mẹ: Phùng Thị S; bị cáo có vợ là Đồng Thị Y, sinh năm 1984; Có 03 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh 2018; Tiền án: Không, Tiền sự: Không có.
Bị cáo bị bắt theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường khẩn cấp ngày 06/4/2021, tạm giữ hình sự từ ngày 06/4/2021 đến ngày 09/4/2021 hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa).
* Người bị hại:
1. Anh Nguyễn Huy T1, sinh năm 1984 2. Chị Kiều Thị Y1, sinh năm 1986 Cùng trú tại: Thôn T, xã P, huyện L, thành phố Hà Nội.
(Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 09/4/2021, anh Nguyễn Huy T1, sinh năm 1984, trú tại: Thôn T, xã P, huyện L, Hà Nội đến Công an xã Phú Thị– Công an huyện Gia Lâm trình báo: Hồi 10 giờ 45 phút ngày 06/4/2021, anh T1 phát hiện một nam thanh niên khoảng 35 tuổi đột nhập vào trong nhà, trộm cắp số tiền 30.000.000 đồng và 01 chỉ vàng 999,9 hiệu DOJI của vợ chồng anh T1 và chị Kiều Thị Y1, sinh 1986. Qua truy xét, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Gia Lâm đã xác định Bùi Nho T là người đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh T1, chị Y1. Ngày 09/4/2021, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Gia Lâm đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Bùi Nho T về hành vi Trộm cắp tài sản để điều tra.
Tại cơ quan điều tra, Bùi Nho T khai nhận: Sáng ngày 06/4/2021, T đứng ở nhà T cách nhà anh T1 01 nhà quan sát thấy nhà anh T1 không có người ở nhà cửa cổng không khóa (chỉ cài chốt trong), Thường nảy sinh ý định đột nhập vào nhà anh T1 nhằm mục đích trộm cắp tài sản. Khoảng 09 giờ cùng ngày, T cầm theo 01 con dao rựa, đi bộ sang nhà anh T1, mở cổng đi vào sân, thấy cửa chính khóa, nên T đi vòng xuống sau nhà, thấy cửa ngách ở gian bếp không khóa, Thường đi qua gian bếp đến cầu thang rồi đi theo cầu thang lên tầng 2 đi vào 02 phòng ngủ bên tay phải lục tìm tài sản nhưng không có tài sản, T đi vào phòng ngủ đối diện cầu thang. Tại đây T thấy có bàn làm việc (chiếc bàn này có buồng tủ và ngăn kéo đang khóa), T dùng con dao mang theo cậy phá khóa buồng tủ mở ra thấy bên trong có chiếc ví da màu nâu và chiếc túi màu đỏ đựng đồ trang sức, Thường mở ví ra thấy bên trong có tiền, T cầm lấy chiếc ví và chiếc túi màu đỏ rồi tẩu thoát về nhà T theo lối đi vào lúc trước. Khi về đến nhà T bỏ tiền ra đếm được 60 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, được tổng số tiền là 30.000.000 đồng, còn trong chiếc túi màu đỏ có 01 miếng vàng 01 chỉ. T cất toàn bộ tài sản trộm cắp được vào trong tủ đựng quần áo của nhà T. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày khi T đang ở nhà thì lực lượng Công an đến mời T đến Công an xã Phú Thị làm việc, T biết việc T trộm cắp tài sản của nhà anh T1 đã bị phát hiện nên đã cầm theo toàn bộ tài sản đã trộm cắp của gia đình anh T1 giao nộp cho Cơ quan công an và khai nhận hành vi phạm tội.
Vật chứng thu giữ: 01 ví da màu nâu chiều dài khoảng 20cm, rộng 05cm, cao khoảng 10cm bên trong có đựng 30.000.000 đồng loại tiền Việt Nam đồng gồm 60 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; 01 túi vải nhỏ màu đỏ, miệng túi màu vàng có dây dùng để rút buộc, bên trong túi màu đỏ có đựng 01 mảnh nhựa được ép plastic chứa bên trong 01 miếng kim loại màu vàng nhãn hiệu của Tập đoàn vàng bạc đá quý Doji trọng lượng 01 chỉ được ghi trên nhãn mác và 01 con dao bằng sắt màu đen kiểu dao chặt có tổng chiều dài 30cm, chiều dài phần lưỡi dao khoảng 20cm, chuôi dao khoảng 10cm, bản rộng 10cm (do Bùi Nho T giao nộp).
Tại kết luận giám định số 3319 ngày 07/5/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an kết luận: 01 miếng kim loại màu vàng, có hình dáng “thỏi vàng”, dập chữ “DOJI”, “Phúc Long”, được ép trong 02 tấm nhựa trong suốt, mặt trước có ghi “Tập đoàn vàng bạc đá quý DOJI, TL: 01 chỉ (3,75G), Vàng 999.9”, có dán tem DOJI, mặt sau có ghi chữ “Lộc, TL: 01 chỉ (3,75G), Vàng 999.9”, có in số seri “YAA34111NN” là vàng có khối lượng 3,75 gam hàm lượng vàng 99,9%.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 92 ngày 14/5/2021, của HĐĐG tài sản trong TTHS huyện Gia Lâm kết luận: 01 chiếc túi vải màu đỏ, bên trong đựng 01 miếng kim loại bằng vàng, có hình dáng “thỏi vàng”, dập chữ “DOJI”, “Phúc Long”, được ép trong 02 tấm nhựa trong suốt , mặt trước có ghi “Tập đoàn vàng bạc đá quý DOJI, TL: 01 chỉ (3,75G), Vàng 999.9”, có dán tem DOJI, mặt sau có ghi chữ “Lộc, TL: 01 chỉ (3,75G), Vàng 999.9”, có in số seri “YAA34111NN”, tại thời điểm ngày 06/4/2021 có giá trị 5.600.000 đồng; 01 chiếc ví giả da màu nâu, có in chữ Lee & Tee, kích 4cm x 11cm x 22cm đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 06/4/2021 có giá trị 0 đồng Đối với 01 ví da màu nâu, số tiền 30.000.000 đồng và 01 chỉ Vàng 999.9, qua điều tra, xác định thuộc quyền sở hữu của vợ chồng anh Nguyễn Huy T1 và chị Kiều Thị Y1 bị Bùi Nho T chiếm đoạt ngày 06/4/2021.
Đối với con dao bằng sắt màu đen kiểu dao chặt có tổng chiều dài 30c, chiều dài phần lưỡi dao khoảng 20cm, chuôi dao khoảng 10cm, bản rộng 10cm, qua điều tra xác định, đây là con dao của Bùi Nho T sử dụng là công cụ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 06/4/2021.Hiện đang có tại kho vật chứng Công an huyện Gia Lâm.
Về trách nhiệm dân sự: Ngày 07/4/2/021 và ngày 25/5/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện đã trả lại cho anh Nguyễn Huy T1 và chị Kiều Thị Y1 số tiền 30.000.000 đồng, 01 chỉ Vàng 999.9 và 01 chiếc ví giả da màu nâu bị Bùi Nho T trộm cắp ngày 06/4/2021, anh T1, chị Y1 đã nhận lại tài sản trên và không yêu cầu bồi thường dân sự đồng thời có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Bùi Nho T.
Tại bản Cáo trạng số 96/CT-VKSGL ngày 31 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Bùi Nho T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa: Bị cáo Bùi Nho T khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận đã có hành vi Trộm cắp tài sản như bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố tại phiên tòa hôm nay và xác nhận hoàn toàn đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ và hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo với nội dung Cáo trạng truy tố.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Nho T phạm tội Trộm cắp tài sản; xử phạt bị cáo Bùi Nho T từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 06/4/2021 đến ngày 09/4/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu về dân sự nên đề nghị không xem xét.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cho tịch thu tiêu hủy 01(một) con dao bằng sắt màu đen kiểu dao chặt có tổng chiều dài 30cm, chiều dài phần lưỡi dao khoảng 20cm, chuôi dao khoảng 10cm, bản rộng 10cm.
Trong phần Tranh luận, bị cáo Bùi Nho T không có ý kiến gì với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát, khi nói lời sau cùng bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với sơ đồ hiện trường, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ xác định: Hồi 10 giờ 45 phút ngày 06/4/2021, tại nhà anh Nguyễn Huy T1 ở thôn T, xã P, huyện L, Hà Nội, bị cáo Bùi Nho T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 30.0000.0000 đồng và 01 miếng kim loại bằng vàng, 01 chỉ (3,75G) loại “Vàng 999.9” có giá trị 5.600.000 đồng của vợ chồng anh Nguyễn Huy T1 và chị Kiều Thị Y1. Tổng giá trị tài sản bị cáo Bùi Nho T đã trộm cắp là 35.600.000 (Ba mươi lăm triệu sáu trăm nghìn) đồng. Hành vi của bị cáo Bùi Nho T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, do vậy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình đi nghĩa vụ quân sự, bị cáo đã có thành tích xuất sắc và được nhận chứng nhận danh hiệu “chiến sĩ giỏi”. Đồng thời, người bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo Bùi Nho T có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng đủ giáo dục và cải tạo bị cáo. Giao bị cáo cho chính quyền và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với con dao bằng sắt màu đen, kiểu dao chặt có tổng chiều dài 30cm, chiều dài phần lưỡi dao khoảng 20cm, chuôi dao khoảng 10cm, bản rộng 10cm là con dao của Bùi Nho T sử dụng là công cụ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và không có giá trị sử dụng nên HĐXX căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cho tịch thu tiêu hủy. [6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 mục I Danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[7] Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 mục I Danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Xử phạt: Bị cáo Bùi Nho T 12(Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24(Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Bùi Nho T cho Uỷ ban nhân dân xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành bản án. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.
3. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về xử lý vật chứng: Cho tịch thu tiêu hủy 01(một) con dao bằng sắt màu đen, kiểu dao chặt có tổng chiều dài 30cm, chiều dài phần lưỡi dao khoảng 20cm, chuôi dao khoảng 10cm, bản rộng 10cm theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng ngày 02/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
5. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại anh Nguyễn Huy T1 và chị Kiều Thị Y1 vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 97/2021/HSST
Số hiệu: | 97/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về