TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 96/2021/HS-ST NGÀY 15/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 126/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 119/2021/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 9 năm 2021 và Thông báo thay đổi lịch xét xử số: 468/2021/TBXXST-HS ngày 29 tháng 9 năm 2021 (do phải tạm dừng xét xử trong thời gian giãn cách xã hội áp dụng từ ngày 09/7/2021 - 08/10/2021, theo tinh thần Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ và Văn bản số 125/TANDTC-VP ngày 11/5/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao) đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Ngọc H, sinh năm 1972; tên gọi khác: Không; nơi sinh Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Ấp 2, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Trọng H (đã chết) và bà Nguyễn Thị L (đã chết); gia đình có 03 chị em, bị cáo là con út, có chồng Nguyễn Văn T, sinh năm 1965, có 04 con lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 23/02/2019 đến ngày 27/02/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ; bị cáo bị bắt truy nã ngày 15/6/2021, chuyển tạm giam ngày 18/6/2021; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vĩnh Cửu; bị cáo có mặt.
- Bị hại: Ông Hoàng Ngọc X, sinh năm 1980; nơi cư trú: Tổ 19, khu phố 5, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1973; nơi cư trú: Khu phố 5, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Quang C, sinh năm 1981; nơi cư trú: Tổ 2, khu phố 8, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/02/2019, Trần Ngọc H đến tiệm vàng Kim B gần chợ Vĩnh A thuộc khu phố 5, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai do ông Hoàng Ngọc X làm chủ để mua nữ trang (trao đổi bông tai bằng vàng). Trong lúc trao đổi mua bán với H, ông X để số tiền 20.000.000 đồng lên mặt tủ kiếng và gọi ông Nguyễn Quang C, sinh năm 1981, ngụ tại khu phố 8, thị trấn Vĩnh A (đang ngồi chờ trước đó) đến lấy. Lợi dụng lúc ông X và ông C không để ý, H lấy trộm số tiền trên cất giấu trong người và nhanh chóng rời đi. Khi ông C hỏi lấy tiền thì không thấy đâu, ông X và ông C kiểm tra camera phát hiện số tiền trên đã bị H chiếm đoạt. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, H đến tiệm vàng Kim T do bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1973 làm chủ, dùng số tiền trộm cắp được mua, đổi nữ trang và tiêu xài cá nhân.
Ngày 22/02/2019, Trần Ngọc H đi chợ Vĩnh A thì bị ông X phát hiện, báo Công an thị trấn Vĩnh A mời làm việc. Tại Cơ quan Công an, H đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như trên.
Vật chứng thu giữ trên người H gồm: Số tiền 2.630.000 đồng; 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng; 01 mặt dây chuyền hình thập tự thánh giá bằng kim loại màu vàng và 01 đôi bông tai bằng kim loại màu vàng.
Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho ông X số tiền 20.000.000 đồng, ông X nhận tiền và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Bản Cáo trạng số: 121/CT-VKSVC ngày 10/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu truy tố bị cáo Trần Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu trình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo: Trần Ngọc H từ 12 tháng đến 14 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo số tiền 2.630.000 đồng; 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng; 01 mặt dây chuyền hình thập tự thánh giá bằng kim loại màu vàng và 01 đôi bông tai vàng. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của bị cáo: Bị cáo không phát biểu tranh luận và không trình bày lời bào chữa.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, rất ăn năn hối hận; bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 20/02/2019, tại tiệm vàng Kim B thuộc khu phố 5, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai, Trần Ngọc H đã lén lút, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng của ông Hoàng Ngọc X đang để trên mặt tủ kính tiệm vàng.
Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập, nhận thấy có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Trần Ngọc H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự xã hội tại địa phương, trong thời gian tại ngoại điều tra đã bỏ trốn và bị bắt lại theo lệnh truy nã. Do vậy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng để bị cáo lấy đó làm bài học cho mình mà tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung tội phạm.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tích cực tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ nêu trên để quyết định hình phạt cho bị cáo mà vẫn đạt được yêu cầu của việc phòng và chống tội phạm.
[5] Về hình phạt bổ sung, theo qui định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự qui định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Do bị cáo không có nghề nghiệp, việc làm ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại ông Hoàng Ngọc X đã nhận tiền bồi thường và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 2.630.000 đồng; 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng; 01 mặt dây chuyền hình thập tự thánh giá bằng kim loại màu vàng và 01 đôi bông tai bằng kim loại màu vàng; có tổng trọng lượng là 3 (ba) chỉ, 6 (sáu) phân, 8 (tám) ly 6 (sáu) (Đã niêm phong ngày 25/8/2021); đây là tài sản của bị cáo Trần Ngọc H, nên Hội đồng xét xử giao trả lại cho H số tài sản này là đúng quy định của pháp luật.
[8] Đối với bà Nguyễn Thị Kim C - chủ tiệm vàng Kim T, không biết số tiền H dùng mua, đổi nữ trang do phạm tội mà có, nên không xử lý bà C về hành vi này là đúng quy định của pháp luật.
[9] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 46 và Điều 48 của Bộ luật hình sự. Điều 45, Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 327, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc H 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/6/2021, nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ trước từ ngày 23/02/2019 đến ngày 27/02/2019.
2. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại ông Hoàng Ngọc X đã nhận lại số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) và không có yêu cầu bồi thường dân sự gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
3. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo Trần Ngọc H số tiền 2.630.000đ (Hai triệu sáu trăm ba mươi ngàn đồng); 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng; 01 mặt dây chuyền hình thập tự thánh giá bằng kim loại màu vàng và 01 đôi bông tai bằng kim loại màu vàng, có tổng trọng lượng là 3 (ba) chỉ, 6 (sáu) phân, 8 (tám) ly 6 (sáu) (Đã niêm phong ngày 25/8/2021), theo biên lai thu tiền số 07770 ngày 13/9/2021 và biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/9/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 96/2021/HS-ST
Số hiệu: | 96/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về