Bản án về tội trộm cắp tài sản số 95/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 95/2022/HS-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 54/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2022/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu T; Sinh năm 2000 tại tỉnh D; Địa chỉ đăng ký thường trú: Xóm A, xã B, huyện C, tỉnh D; Chỗ ở hiện nay: Số A Quốc lộ B, khu phố C, phường D, thành phố E, Thành phố F; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1972; Chưa có vợ và con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 19 tháng 6 năm 2021. (Có mặt)

Bị hại: Ông Trương Văn H, sinh năm 1997; Địa chỉ: Số A đường B, phường C, thành phố D. (Vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Nguyễn Công L, sinh năm 1953; Địa chỉ: Thôn A, xã B, thành phố C, tỉnh D. (Vắng mặt)

Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1996; Địa chỉ: Số A đường B, phường C, Quận D, Thành phố E. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại pH tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 19/6/2021, T một mình điều khiển xe mô tô biển số 76N5-8644 đến Chợ đầu mối nông sản Thủ Đức, đi một vòng xung quanh chợ để quan sát. Khi đến trước vựa bán rau J1.1, Đường số 2, Khu B, Chợ đầu mối nông sản Thủ Đức, Khu phố 5, phường Tam Bình, thành phố Thủ Đức, thì T thấy xe mô tô, nhãn hiệu Warm, biển số 67H4-0643 của ông Trương Văn H đang cắm chìa khóa và không có người trông coi, nên T đã dừng xe, để dưới lòng đường, cách vị trí xe mô tô của ông H khoảng 20 mét. T đi bộ đến ngồi lên xe, bật khóa, nổ máy điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Warm, biển số: 67H4-0643 tẩu thoát, thì bị ông H và ông Nguyễn Văn H phát hiện, đuổi theo bắt giữ T cùng vật chứng giao cho Công an phường Tam Bình, thành phố Thủ Đức lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Nguyễn Hữu T đã khai nhận hành vi phạm tội.

Vật chứng:

01 xe mô tô nhãn hiệu Warm, biển số: 67H4-0643, số máy: 01024745, số khung: 0000245 của ông Trương Văn H. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho ông H;

01 xe mô tô nhãn hiệu Damsel, biển số 76N5-8644, số máy: 1951277, số khung: 931254, kết quả xác minh xe do Nguyễn Công L địa chỉ Long Thành, Tịnh Thiện, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi đứng tên chủ sở hữu và giao xe cho con ruột là anh Nguyễn Ngọc T làm phương tiện đi học, anh T đã cầm cố xe trên nhưng không chuộc lại. Nguyễn Hữu T khai nhận đã mua xe trên của một người đàn ông không rõ lai lịch và sử dụng để đi trộm cắp tài sản.

01 điện thoại Xiaomi của Nguyễn Hữu T;

01 mủ bảo hiểm màu đen của Nguyễn Hữu T;

01 USB trích xuất từ camera ghi lại nội dung vụ việc lưu vào hồ sơ vụ án.

Bản ảnh được trích xuất từ camera ghi nhận toàn bộ vụ việc trộm cắp tài sản của Nguyễn Hữu T được lưu trong hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại: Ông Trương Văn H đã nhận lại xe, không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Kết luận định giá tài sản số 164-KV3/KLĐG-HĐĐGTS ngày 23/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: Xe mô tô, kiểu dáng Wave, nhãn hiệu Warm, biển số: 67H4-0643 có giá trị là: 5.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số 78/CT-VKSTPTĐ ngày 18/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Hữu T mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù; Về bồi thường thiệt hại: Bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại; Về xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng; Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên và không tự bào chữa; Bị cáo nói lời sau cùng biết lỗi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu T khai nhận đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 xe mô tô, nhãn hiệu Warm, biển số: 67H4-0643 có giá trị 5.000.000 đồng của ông Trương Vãn H vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 19/6/2021, tại trước vựa bán rau J1.1, Đường số 2, Khu B, Chợ đầu mối nông sản Thủ Đức, Khu phố 5, phường Tam Bình, thành phố Thủ Đức. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích muốn thỏa mãn động cơ cá nhân, muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động nên vẫn cố tình phạm tội với lỗi cố ý. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, phù hợp với sự thật khách quan của vụ án đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[3] Như vậy quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đối với bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân và gây mất trật tự, an toàn xã hội cần phải xử lý nghiêm minh bị cáo trước pháp luật vì vậy, có một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: 01 xe mô tô đã trả lại cho bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét. 01 xe mô tô nhãn hiệu Damsel, biển số 76N5-8644, số máy:

1951277, số khung: 931254, của Nguyễn Hữu T sử dụng để đi trộm cắp tài sản cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. 01 điện thoại Xiaomi của Nguyễn Hữu T không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo. 01 mũ bảo hiểm màu đen của Nguyễn Hữu T không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy. 01 USB trích xuất từ camera ghi lại nội dung vụ việc lưu vào hồ sơ vụ án.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Hữu T 09 (Chín) tháng 10 (mười) ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 6 năm 2021.

2. Áp dụng khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Hình sự:

Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Hữu T nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Damsel, biển số 76N5-8644, số máy: 1951277, số khung: 931254;

Tịch thu tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm màu đen;

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu T 01 điện thoại Xiaomi.

(Theo Quyết định Chuyển vật chứng số 35/QĐ-VKS ngày 14/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Công an thành phố Thủ Đức và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức) 4. Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Nguyễn Hữu T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án sơ thẩm có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 95/2022/HS-ST

Số hiệu:95/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;