Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 94/2022/HS-ST NGÀY 08/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 85/2022/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 576/2022/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Ngọc Trúc Q, sinh ngày 27/6/1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; Thường trú: Số 148 đường HN, Phường T, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Số 235 (lửng sau) đường CT, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; con ông Trần Trọng Đ, sinh năm 1954 và bà Dương Thị Thùy D, sinh năm 1955; Chồng, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Năm 2002, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có quyết định đưa vào Trường giáo dưỡng 18 tháng;

- Ngày 25/6/2004, Toà án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 6 tháng tù cho hưởng án treo, theo bản án số 56/HSST về Tội “Trộm cặp tài sản”, đã xóa án tích;

- Ngày 29/5/2005, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 kết luận điều tra đề nghị truy tố, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 trả điều tra bổ sung và ngày 17/9/2006, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can.

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 22/3/2022 đến nay (có mặt).

Người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1994 Địa chỉ: Số x đường Tân Thuận Tây, phường Bình Thuận, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2. Bà Trần Thị Kim H, sinh năm 1978 Địa chỉ: 30/9C đường số C, phường HA, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Đặng Quốc K, sinh năm 1988 Địa chỉ: A15-05 Chung cư L, phường BT, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Văn D – Luật sư của Công ty Luật TNHH MTV NS thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài, Trần Ngọc Trúc Q đã thực hiện nhiều hành vi phạm tội như sau:

Vụ thứ nhất:

Vào khoảng 11 giờ 40 phút ngày 30/3/2021, Trần Ngọc Trúc Q đi bộ đến tiệm tạp hoá số 1X đường TT, phường BT, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh của anh Nguyễn Văn L để mua đồ dùng cá nhân thì thấy bên trong tiệm không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Q thấy 01 tủ gỗ đặt sau cánh cửa chính bên phải cửa tiệm nên dùng tay phải mở cửa tủ, phát hiện có 01 chiếc bóp màu nâu bên trong có 5.149.000 đồng nên đã trộm cắp số tiền này, bỏ vào túi xách đeo trên người rồi rời đi thì bị anh L phát hiện, bắt giữ cùng tang vật, giao Công an phường BT, Quận B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bàn giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 thụ lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Quận 7 đã ra Quyết định khởi tố vụ án, Khởi tố bị can, Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can Trần Ngọc Trúc Q.

Vụ thứ hai:

Vào khoảng 11 giờ 20 phút ngày 20/3/2022, Trần Ngọc Trúc Q đi bộ vào cửa hàng Viin Riic lầu X Trung tâm Thương Mại Sài Gòn C, số 65, đường LL, phường BN, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh để trộm cắp tài sản. Lợi dụng lúc nhân viên cửa hàng không để ý, Q đến bàn thu ngân thấy 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax của chị Trần Thị Kim H (quản lý cửa hàng,) để trên bàn, không người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản; Q dùng tay phải lấy trộm điện thoại giấu vào ngăn túi trong bên trái áo khoác rồi rời khỏi cửa hàng. Chị H thấy Q bỏ đi, phát hiện mất điện thoại nên nhờ anh Đặng Quốc K (nhân viên) đuổi theo; tại lối cầu thang cuốn lầu 2, anh K cùng người dân phát hiện giữ Q cùng điện thoại di động hiệu Iphone 13 ProMax giao Công an phường BN, Quận 1 lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 thụ lý theo thẩm quyền.

Ngày 21/3/2022, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự Ủy ban nhân dân Quận 1 đã ra kết luận định giá tài sản số 68/KL-HĐĐGTS, kết luận 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax trị giá 30.000.000 đồng.

Ngày 26/02/2022, Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có kết luận giám định pháp y tâm thần số 749/KLGĐ đối với Trần Ngọc Trúc Q, xác định: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản ngày 30/3/2021 và cho đến hiện tại, đối tượng hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Ngày 06/5/2022, Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có Kết luận giám định pháp y tâm thần số 931/KLGĐ đối với Trần Ngọc Trúc Q, xác định: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản cho đến nay, Trần Ngọc Trúc Q hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, Trần Ngọc Trúc Q khai nhận toàn bộ hành vi phù hợp với lời khai bị hại, biên bản thực nghiệm điều tra, đối chất cùng các tài liệu, chứng cứ mà Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 thu thập được.

Vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- 02 đĩa DVD ghi nhận hình ảnh Trần Ngọc Trúc Q trộm cắp điện thoại di động Iphone 13 Promax của chị Trần Thị Kim H (kèm hồ sơ);

- Số tiền 5.149.000 đồng; đã thu hồi và trả cho bị hại anh Nguyễn Văn L, anh Lưu không có yêu cầu gì khác.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 ProMax, Số Imei: 353321165332340X; đã thu hồi và trả cho bị hại chị Trần Thị Kim H, chị H không có yêu cầu gì khác.

Tạm giữ của Trần Ngọc Trúc Q:

- 01 điện thoại di động hiệu Redmi note 11; số Imei1: 86131205342844X, số Imei 2: 86131205342845X;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10; số Imei 1: 35534410500444X;

- 01 áo dài tay màu đen.

Hiện tất cả vật chứng đang nhập kho Công an Quận 1.

Tại bản cáo trạng số 88/CT-VKSQ1 ngày 12 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Ngọc Trúc Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 tham gia phiên tòa kết luận bị cáo Trần Ngọc Trúc Q đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, xét bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, hành vi chưa gây thiệt hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm q, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo Q từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Đối với vật chứng của vụ án, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đề nghị: Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 02 đĩa DVD ghi nhận hình ảnh Trần Ngọc Trúc Q trộm cắp điện thoại di động Iphone 13 Promax của chị Trần Thị Kim H; Tịch thu tiêu hủy 01 áo dài tay màu đen; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Redmi note 11; số Imei1: 86131205342844X, số Imei 2: 86131205342845X; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10; số Imei 1: 35534410500444X.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Văn L và chị Trần Thị Kim H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với tội danh và điều khoản Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thông qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 11 giờ 40 phút ngày 30/3/2021 tại tiệm tạp hoá số 1X đường TT, phường BT, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Ngọc Trúc Q có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 5.149.000 đồng của anh Nguyễn Văn L và vào khoảng 11 giờ 20 phút ngày 20/3/2022, tại cửa hàng Viin Riic lầu H Trung tâm Thương Mại Sài Gòn C, số 65, đường LL, phường BN, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh, Q có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại Iphone 13 Promax có giá trị 30.000.000 đồng của chị Trần Thị Kim H, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vì động cơ tư lợi cá nhân, muốn có tiền tiêu xài cho bản thân mà không phải lao động nên vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội 02 lần trở lên nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe đối với bản thân bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhận thấy bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, hành vi chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm q, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Văn L và chị Trần Thị Kim H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

[4]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 02 đĩa DVD ghi nhận hình ảnh Trần Ngọc Trúc Q trộm cắp điện thoại di động Iphone 13 Promax của chị Trần Thị Kim H;

- Tịch thu tiêu hủy 01 áo dài tay màu đen do không còn giá trị sử dụng;

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Redmi note 11; số Imei1: 86131205342844X, số Imei 2: 86131205342845X; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10; số Imei 1: 35534410500444X do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo;

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc Trúc Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm q, h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt Trần Ngọc Trúc Q 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2022.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 02 đĩa DVD ghi nhận hình ảnh Trần Ngọc Trúc Q trộm cắp điện thoại di động Iphone 13 Promax của chị Trần Thị Kim H;

Tịch thu tiêu hủy 01 áo dài tay màu đen;

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Redmi note 11; số Imei1: 86131205342844X, số Imei 2: 86131205342845X; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10; số Imei 1: 35534410500444X.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 84/22-PNK ngày 27/6/2022 của Đội Thi hành án hình sự & Hỗ trợ tư pháp Công an Quận 1)

- Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Ngọc Trúc Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng các Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2022/HS-ST

Số hiệu:94/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;