Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 94/2022/HS-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ L số: 87/2022/TLST- HS ngày 26 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Lê H; sinh ngày X tại huyện T, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Thôn Q, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề ngHi: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông M và bà H; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: 03:

- Ngày 27-8-2013 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 28-5-2014 bị Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt là 02 năm 03 tháng tù, chấp hình xong hình phạt ngày 14-02-2016;

- Ngày 03-8-2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hình xong hình phạt ngày 06-9-2019.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04-11-2021 đến nay; có mặt.

- Bị hại:

1. Cao Minh T1; sinh năm X; nơi cư trú: Tổ X, khu vực Y, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

2. Nguyễn Văn L; sinh năm Y; nơi cư trú: Tổ N, khu vực M, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

3. Dương Thành L; sinh năm T; nơi cư trú: Thôn M, xã P, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

4. Hồ Ngọc H2; sinh năm T; nơi cư trú: Tổ S, khu vực D, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

5. Trần Văn K; sinh năm T; nơi cư trú: Tổ E, khu vực G, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Nguyễn Kim D; sinh năm K; nơi cư trú: Thôn N, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

2. Nguyễn Thành Th; sinh năm P; nơi cư trú: Thôn Q, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

3. Nguyễn Quốc V; sinh năm S; nơi cư trú: Thôn A1, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

4. Trần Quốc D; sinh năm K; nơi cư trú: Thôn A1, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

5. Ngô Văn Hi; sinh năm S; nơi cư trú: Thôn A1, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

6. Nguyễn Lê P; sinh năm N; nơi cư trú: Thôn A1, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

7. Nguyễn Quốc Th1; sinh năm M; nơi cư trú: Số V, đường K, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cuối tháng 5-2020, Lê Văn T (chưa rõ lai lịch) đến ăn nhậu tại quán nhậu vỉa hè “A H” của Nguyễn Lê H ở đường Long Vân – Long Mỹ, thành phố Quy Nhơn nhưng do không có tiền trả nên đã để lại một xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius không gắn biển số để làm tin. Khoảng 02 ngày sau, T đến trả nợ lấy lại xe. T làm quen, lấy số điện thoại của H và thỏa thuận T sẽ đi trộm xe mô-tô rồi nhờ H bán hoặc nếu có người cần mua xe mô-tô giá rẻ thì H báo lại để T đi trộm cắp về cho H bán. Đầu tháng 10-2020, T điện thoại báo cho H biết vừa trộm được 01 xe mô-tô Yamaha Sirius màu đỏ - đen (không rõ đặc điểm) và nhờ H tìm chỗ bán với giá 3.500.000 đồng. H gọi điện qua ứng dụng Messenger cho Nguyễn Thành Th nhờ tìm người để bán xe mô-tô này với giá 3.500.000 đồng. Th giới thiệu Nguyễn Quốc V mua xe nhưng V hẹn vài ngày sau sẽ mua vì chưa đủ tiền. Đến ngày 07-10-2020, T đem xe mô-tô Yamaha Sirius màu đỏ - đen nêu trên đến nhà trọ của H ở khu vực Y, phường B, thành phố Q để H dùng điện thoại chụp lại hình xe mô-tô này. Sau đó, do V không đủ tiền mua xe nên T đã bán xe này cho người khác (không rõ lai lịch). Tiếp đó, Nguyễn Lê H còn nhiều lần bán các xe mô-tô do T trộm cắp trên địa bàn thành phố Quy Nhơn, cụ thể:

- Khoảng 00 giờ ngày 04-10-2020, Cao Minh T1 dựng xe mô-tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh - trắng, biển số 77L1-183.35 trước nhà số 777, đường Âu Cơ, phường Bùi Thị Xuân, thành phố Quy Nhơn rồi đi ngủ. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, T1 phát hiện bị mất xe nên đến Công an phường Bùi Thị Xuân báo cáo sự việc.

Sáng ngày 04-10-2020, T gọi điện thoại báo cho H biết vừa trộm được 01 xe mô-tô hiệu Yamaha Exciter 135 màu xanh - trắng và nhờ H tìm người để bán với giá 5.500.000 đồng. T đem xe mô-tô đến nhà trọ của H để chụp hình lại rồi T đem xe đi.

Khoảng 20 giờ ngày 10-10-2020, Nguyễn Kim D và Trần Quốc D đến nhậu tại quán “Út Th” của Nguyễn Thành Th ở xã P, huyện T. Quốc D nhờ Th tìm người bán xe mô-tô để mua làm phương tiện đi lại. Th liên lạc với H thì được H gạ bán xe mô-tô Exciter màu xanh - trắng nêu trên với giá 5.500.000 đồng và hẹn đem xe đến quán để giao dịch. H gọi điện thoại cho T đem xe Exciter đến quán nhậu của H rồi cả hai cùng đến quán “Út Th” để bán xe. Tại quán “Út Th”, T đứng chờ bên ngoài rồi bỏ đi đâu không rõ còn H đem xe vào trong quán để giao dịch. Khi bán, xe không gắn biển số nhưng Quốc D vẫn đồng ý mua xe. Do không mang theo tiền nên Quốc D nhờ Kim D trả tiền. H và Kim D trao đổi số điện thoại để liên lạc rồi H nhờ Th chở về quán “A H”. Khoảng 30 phút sau, T quay lại quán nhậu của H và nhận số tiền bán xe 5.500.000 đồng, T cho H 400.000 đồng. Sau này, Quốc D không có tiền trả Kim D nên thỏa thuận nhượng lại xe Exciter nêu trên cho Kim D sử dụng. Kim D liên lạc với tài khoản facebook “Trương Luân” để đặt mua giấy đăng ký xe giả và biển số 77G1- 115.39 rồi gắn vào xe để gạ bán cho Nguyễn Quốc Th1. Kim D nói dối xe Exciter có nguồn gốc hợp pháp. Quốc Th thấy xe gắn biển số và có giấy đăng ký trùng với biển số và số khung, số máy nên tưởng thật đã đồng ý mua với giá 12.500.000 đồng. Ngày 16-10-2020, Quốc Th bán xe Exciter gắn biển số 77G1-115.39 cho Võ Tấn L với giá 13.500.000 đồng. Ngày 24-10-2020, Công an huyện Tuy Phước đã tạm giữ xe Exciter gắn biển số 77G1-115.39 và giấy đăng ký xe giả từ L.

- Khoảng 21 giờ ngày 08-10-2020, Nguyễn Văn L dựng xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen, biển số 77G1-751.92 trong sân nhà ở Tổ N, khu vực M, phường B, thành phố Q. Đến khoảng 06 giờ ngày 09-10-2020, L phát hiện bị mất xe nên đã đến Công an phường Bùi Thị Xuân báo cáo sự việc. Cũng khoảng 21 giờ ngày 08-10- 2020, Trần Văn K dựng xe mô-tô hiệu Honda AirBlade màu đỏ - đen, biển số 77C1- 330.69 trong sân sau nhà ở Tổ E, khu vực G, phường B, thành phố Q rồi đi ngủ. Đến khoảng 04 giờ ngày 09-10-2020, Khoa phát hiện bị mất xe nên đã đến Công an phường Bùi Thị Xuân báo cáo sự việc. Sáng ngày 10-10-2020, T gọi điện thoại báo cho H biết vừa trộm được 01 xe mô-tô hiệu Honda AirBlade màu đỏ - đen và 01 xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen, nhờ H tìm chỗ bán với giá 7.000.000 đồng.

H bảo T đem 02 xe mô-tô đến nhà trọ của H. T và một người tên H1 (chưa rõ lai lịch) đem xe AirBlade màu đỏ - đen và xe Sirius màu đỏ - đen nêu trên đến nhà trọ của H để H chụp hình lại; sau đó, T và H1 đem 02 xe này đi. Khoảng 19 giờ ngày 12-10- 2020, Nguyễn Kim D đang ngồi uống cà phê với bạn là Lê Anh K tại quán cà phê “Sơn Trang” ở xã Phước An, huyện Tuy Phước thì H gọi điện thoại cho Kim D gạ bán 02 xe mô-tô nêu trên với giá 7.000.000 đồng, hẹn đến cây xăng “Hi Hòa” ở thôn Ngọc Thạnh 1, xã Phước An, huyện Tuy Phước để giao dịch. H gọi điện thoại bảo T đem xe đến để H mang đi bán cho Kim D. T và H1 đem 02 xe mô-tô đến quán nhậu “A H” rồi cùng H đi đến điểm hẹn. Kim D thấy 02 xe mô-tô không có biển số nhưng đồng ý mua 02 xe mô-tô nêu trên với giá 7.000.000 đồng. H đưa T số tiền bán xe và được T cho 500.000 đồng. Sau đó, Kim D liên lạc với tài khoản facebook “Trương Luân” để đặt mua 02 giấy đăng ký xe giả và 02 biển số 77G1-356.69, 77G1-336.52 rồi gắn lần lượt vào xe Sirius và xe AirBlade để gạ bán cho Nguyễn Quốc Th1. Kim D nói dối 02 xe mô-tô này có nguồn gốc hợp pháp. Th thấy 02 xe mô-tô có gắn biển số và giấy đăng ký xe trùng với biển số và số khung, số máy nên tưởng thật đã đồng ý mua với giá lần lượt là 9.500.000 đồng và 16.700.000 đồng. Ngày 16-10-2020 và ngày 17-10-2020, Th bán xe Sirius gắn biển số 77G1-356.69 và xe AirBlade gắn biển số 77G1-336.52 cho Võ Tấn L với giá 9.500.000 đồng và 17.500.000 đồng. Ngày 24- 10-2020, Công an huyện Tuy Phước đã tạm giữ xe AirBlade gắn biển số 77G1- 336.52 và giấy đăng ký xe giả từ L. Ngày 31-10-2020, Công an thành phố Quy Nhơn đã tạm giữ xe Sirius gắn biển số 77G1-356.69 và giấy đăng ký xe giả từ L.

- Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 13-10-2020, Hồ Ngọc H2 dựng xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - xanh, biển số 77L1-706.90 trước nhà trọ ở tổ 10, khu vực 6, phường Trần Quang Diệu, thành phố Quy Nhơn rồi đi ngủ. Đến khoảng 06 giờ ngày 14-10-2020, H2 phát hiện xe bị mất. Sáng ngày 14-10-2020, T gọi điện thoại báo cho H biết vừa trộm được 01 xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - xanh, nhờ H tìm chỗ bán với giá 3.500.000 đồng. H bảo T đem xe đến nhà trọ của H để chụp hình lại, rồi T đem xe đi. Cùng ngày, Nguyễn Quốc V liên lạc với Nguyễn Thành Th để mua xe Sirius màu đỏ - đen nên Th liên lạc với H để mua xe. Tuy nhiên, T đã bán xe này cho người khác nên H đã nhờ Th gạ bán cho Việt xe mô-tô hiệu Sirius màu đen – xanh nêu trên. Việt đồng ý và liên lạc với tài khoản facebook của H để hẹn giao dịch mua xe tại cây xăng quân đội ở phường Bùi Thị Xuân, thành phố Quy Nhơn. Khoảng 20 giờ ngày 16-10-2020, H bảo T đem xe đến rồi cùng H đi đến chỗ hẹn. Việt thấy xe không có biển số nhưng vẫn đồng ý mua với giá 3.000.000 đồng. H đưa cho T 3.000.000 đồng tiền bán xe, T cho H 300.000 đồng. Sau đó, Việt giấu xe ở bãi đất trống gần nhà rồi đi mua biển số 77G1-652.79 tại tiệm dán keo xe “Quy Nhơn” ở số nhà 47, đường L, thành phố Quy Nhơn, gắn vào xe Sirius nêu trên để sử dụng. Ngày 23-10-2020, Công an huyện Tuy Phước đã tạm giữ xe Sirius màu đen - xanh gắn biển số 77G1-652.79 từ Việt.

- Khoảng 23 giờ ngày 15-10-2020, Dương Thành L dựng xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen, biển số 77B1-039.85 trước nhà ở xóm 3, thôn M, xã P, thành phố Q rồi đi ngủ. Đến khoảng 08 giờ ngày 16-10-2020, L phát hiện bị mất trộm xe nên đến Công an xã Phước Mỹ báo cáo sự việc. Sáng ngày 16-10-2020, T gọi điện thoại báo cho H biết vừa trộm được 01 xe mô-tô Sirius màu đỏ - đen, nhờ H tìm chỗ bán với giá 3.500.000 đồng. H bảo T đem xe đến nhà trọ của H để chụp hình lại, rồi T đem xe đi. Cùng ngày, Nguyễn Lê P nhờ Nguyễn Thành Th tìm mua giúp một xe mô- tô cho Ngô Văn Hi. Th liên lạc với H hỏi mua xe. H gạ bán cho Th xe mô-tô nêu trên và hẹn gặp để giao dịch. Khoảng 20 giờ ngày 17-10-2020, T đem xe mô-tô Sirius màu đỏ - đen cùng H đến cầu “Quán Trúc” ở xã Phước An, huyện Tuy Phước. Hi thấy xe không có biển số nhưng vẫn đồng ý mua với giá 3.500.000 đồng. H đưa cho T số tiền bán xe 3.500.000 đồng và được T chia 300.000 đồng. Hi đem xe về nhà và lấy biển số 59S1-684.52 có sẵn gắn vào xe Sirius nêu trên để sử dụng. Ngày 23-10- 2021, Công an huyện Tuy Phước đã tạm giữ xe mô-tô từ Hi.

Sau khi giúp H bán các xe mô-tô nêu trên, Nguyễn Thành Th nghe Đài truyền thanh Tuy Phước thông báo nhiều vụ trộm trên địa bàn với thủ đoạn cắt lưới B40 vào nhà lấy trộm xe mô-tô. Th nghi ngờ H chính là người đã trộm xe nên điện thoại hỏi H về nguồn gốc các xe mô tô Exciter 135 màu xanh - trắng biển số 77L1-183.35, xe Sirius màu đen - xanh biển số 77L1-706.90, xe Sirius đỏ - đen biển số 77B1-039.85 và xe Sirius đỏ - đen mà H định bán cho Việt nhưng sau đó đã bán cho người khác. H đã nói rõ những xe này do trộm cắp mà có.

Ngày 03-01-2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quy Nhơn kết luận: Xe mô-tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh - trắng biển số 77L1- 183.35 trị giá 18.000.000 đồng; xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen biển số 77G1-751.92 trị giá 13.000.000 đồng; xe mô-tô hiệu Honda AirBlade màu đỏ - đen biển số 77C1-330.69 trị giá 19.000.000 đồng; xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - xanh biển số 77L1-706.90 trị giá 12.000.000 đồng; xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen biển số 77B1-039.85 trị giá 11.000.000 đồng. Ngày 26-02-2021, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các giấy chứng nhận đăng ký xe mô-tô số 042764, 036388, 036362 là giả; các biển số xe 77L1-356.69, 77G1-212.59, 77G1-184.79 là giả.

Về vật chứng:

- Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô-tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh - trắng cho Cao Minh T1, xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen cho Nguyễn Văn L, xe mô-tô hiệu Honda AirBlade màu đỏ - đen cho Trần Văn K, xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - xanh cho Hồ Ngọc H2, xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen cho Dương Thành L.

- Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn đã bàn giao: 01 xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - trắng không gắn biển số cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Cát; 01 xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen không gắn biển số, 03 biển số 77L1-356.69, 77G1-212.59, 77G1-184.79 và 03 giấy đăng ký xe cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Phước để điều tra theo thẩm quyền.

- Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20 màu xanh - đen, 32Gb, số imei1: 355039102993408, số imei2: 355040102993406, gắn sim số: 0862242251, đã qua sử dụng.

Về dân sự:

- Các bị hại Cao Minh T1, Trần Văn K, Dương Thành L, Hồ Ngọc H2, Nguyễn Văn L đã nhận lại xe mô-tô và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

- Nguyễn Kim D đã hoàn trả tiền bán xe mô-tô cho Nguyễn Quốc Th1 40.000.000 đồng và Th không yêu cầu gì thêm.

- Nguyễn Quốc Th1 đã hoàn trả tiền bán xe mô-tô cho Võ Tấn L 40.500.000 đồng và L không yêu cầu gì thêm.

Bản cáo trạng số 25/CT-VKSQN ngày 25-01-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn truy tố bị cáo Nguyễn Lê H về tội “Trộm cắp tài sản” theo các điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Lê H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như bản cáo trạng đã nêu và các chứng cứ mà cơ quan cảnh sát điều tra đã thu thập. Bị cáo xin Tòa xử phạt nhẹ.

Trong phần luận tội, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lê H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng các điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; tuyên phạt bị cáo Nguyễn Lê H từ 04 năm đến 05 năm tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Không.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20 màu xanh - đen, 32Gb, số imei1: 355039102993408, số imei2: 355040102993406, đã qua sử dụng.

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 thẻ sim số: 0862242251.

+ Truy thu số tiền thu lợi bất chính 1.500.000 đồng của bị cáo Nguyễn Lê H để sung vào ngân sách nhà nước.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình, bị cáo rất hối hận và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố bảo đảm tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến kH nại.

[2] Bị cáo Nguyễn Lê H có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thừa nhận toàn bộ sự việc phạm tội giống như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở khẳng định: Giữa bị cáo H và Lê Văn T có hứa hẹn với nhau là H sẽ giúp T bán các xe mô-tô do T trộm cắp được và nếu có người cần mua xe thì H sẽ báo cho T để T trộm cắp về cho H bán. Từ ngày 04-10-2020 đến ngày 15-10-2020, T trộm cắp được 05 xe mô-tô của Cao Minh T1, Trần Văn K, Dương Thành L, Hồ Ngọc H2, Nguyễn Văn L trên địa bàn thành phố Quy Nhơn, với tổng giá trị là 73.000.000 đồng, sau đó đưa cho bị cáo H bán giúp. Bị cáo H đã giúp T bán các xe mô-tô nêu trên cho Nguyễn Thành Th, Nguyễn Kim D, Trần Quốc D, Nguyễn Quốc V, Nguyễn Lê P, Ngô Văn Hi và hưởng L từ tiền bán xe do T đưa lại với tổng số tiền là 1.500.000 đồng. Mặc dù không trực tiếp lấy trộm xe nhưng với việc hứa hẹn trước đó, bị cáo H đã giúp sức cho T trong việc trộm cắp các xe mô-tô nêu trên, thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn với vai trò là người giúp sức. Bị cáo có 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, đã từng bị xét xử với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” tại Bản án số 77/2017/HS-ST ngày 03-8-2017 của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, chưa được xóa án tích mà nay lại tiếp tục giúp sức cho việc trộm cắp tài sản. Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an ở địa phương. Do đó, Cáo trạng cũng như lời luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo các điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Với vai trò là người giúp sức, bị cáo H đã 05 lần giúp cho cho T chiếm đoạt 05 xe mô-tô rồi bán lại cho người khác, thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trước đó, bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không chịu tu tâm dưỡng tánh, ăn năn hối cải để làm công dân tốt mà vẫn tính nào tật nấy tiếp tục phạm tội. Sau khi bị khởi tố, bị cáo đã bỏ trốn, gây nhiều khó khăn cho việc điều tra, xử lý tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cho nên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung cho xã hội. Do tình hình dịch bệnh Covid-19 kéo dài, bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Việc bị cáo thành khẩn khai báo sau khi bị bắt theo lệnh truy nã và tại phiên tòa là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, sẽ được Hội đồng xét xử cân nhắc khi quyết định hình phạt.

[4] Thông qua việc phạm tội, bị cáo đã thu lợi bất chính từ việc bán 05 xe mô-tô trộm cắp được với số tiền 1.500.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng cần áp dụng biện pháp tư pháp tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền này theo điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại cho các bị hại 05 xe mô-tô bị chiếm đoạt, không ai còn có ý kiến gì nên không tiếp tục xem xét. Cơ quan điều tra cũng đã chuyển 01 xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - trắng không gắn biển số cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Cát; 01 xe mô-tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen không gắn biển số, 03 biển số 77L1-356.69, 77G1-212.59, 77G1- 184.79 và 03 giấy đăng ký xe cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Phước để điều tra, xử lý theo thẩm quyền lợià có căn cứ.

[5.2] Cơ quan điều tra đã tạm giữ của bị cáo H 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20 màu xanh - đen, 32Gb, số imei1: 355039102993408, số imei2: 355040102993406, gắn sim số: 0862242251, đã qua sử dụng. Xét thấy đây là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước điện thoại di động và tịch thu tiêu hủy thẻ sim số: 0862242251 theo khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự, do các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Quá trình điều tra, do bị cáo H bỏ trốn, bị truy nã nên cơ quan điều tra đã ra quyết định tách vụ án để điều tra, xử lý riêng các đối tượng mua 05 xe mô-tô nêu trên gồm: Nguyễn Kim D, Nguyễn Thành Th, Nguyễn Quốc V, Trần Quốc D, Ngô Văn Hi, Nguyễn Lê P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã đưa các đối tượng này ra xét xử, kết tội tại Bản án số 18/2021/HS-ST ngày 03-11-2021. Riêng đối tượng Lê Văn T, theo như lời khai của bị cáo H, đã trực tiếp trộm cắp 05 xe mô-tô nêu trên, do chưa xác định rõ lai lịch nên cơ quan điều ra đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 01 ngày 07-01-2022 để tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp.

[8] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát về hình phạt đối với bị cáo H căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm; các tình tiết đánh giá về nhân thân của bị cáo; tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; cũng như về xử lý vật chứng và về phần dân sự là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.

[9] Bị cáo H phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban T vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lê H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng các điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Nguyễn Lê H 04 (bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 04-11-2021.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; buộc Nguyễn Lê H phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính 1.500.000 đồng để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20 màu xanh - đen, 32Gb, số imei1: 355039102993408, số imei2: 355040102993406, đã qua sử dụng.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 thẻ sim số: 0862242251.

(Theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 10-02-2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn).

4. Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban T vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc Nguyễn Lê H phải chịu án phí sơ thẩm hình sự là 200.000 đồng.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2022/HS-ST

Số hiệu:94/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;