Bản án về tội trộm cắp tài sản số 92/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 92/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2023, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 90/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Đặng Thị Ngọc L, sinh ngày 25 tháng 11 năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nữ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Làm công; Học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Văn H; con bà: Nguyễn Thị Lệ T; Có chồng tên: Phùng Thanh H1, có 01 người con, sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 01/11/2022 bị Công an Q, Thành phố Hồ Chí Minh bắt tạm giam do có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo hiện đang bị Cơ quan tiến hành tố tụng Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh bắt tạm giam (có mặt tại phiên tòa)

Bị hại: Bà Huỳnh Thị Minh U, sinh năm 1989; Nơi cư trú: 437A14 đường P, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Kim C và Đặng Thị Ngọc L có mối quan hệ quen biết với nhau từ trước. Vào khoảng hơn 19 giờ ngày 07/12/2020, C đến chỗ của L đang làm thuê rủ L đến Bệnh viện C1 để trộm cắp tài sản thì được L đồng ý. L điều khiển xe mô tô biển số 67B1-441.47 chở C đến Bệnh viện C1, C đi vào trong Bệnh viện còn L đứng đợi Chi trước cổng chờ khi C lấy được tài sản thì L sẽ chở C tẩu thoát. Khoảng 20 giờ cùng ngày, C một mình đi vào Bệnh viện 30-4, đi thang máy lên lầu 2, lầu 3 lòng vòng các khu hành lang tìm người có tài sản để sơ hở thì trộm cắp. Khi C đến phòng số 330, lầu 3 Khoa điều trị cao cấp của Bệnh viện thì thì phát hiện bà Huỳnh Thị Minh U đang nằm ngủ trong phòng, phòng không khóa cửa, U có để một điện thoại di động nhãn hiệu iphone X trên giường cạnh bên tay phải. Lợi dụng lúc bà U nằm ngủ và không ai canh giữ, C lén lút vào trong phòng dùng tay phải lấy trộm chiếc điện thoại nhãn hiệu iphone X của U rồi nhanh chóng bỏ đi. Ngay lúc này, Bà U nghe thấy động ở giường nên thức dậy và phát hiện bị mất điện thoại, U nhìn ra cửa thì thấy có dáng người phụ nữ mặc áo vàng vừa rời khỏi phòng, U liền gọi cho chị Nguyễn Thị Thanh T1 là người chăm sóc cho U đang nằm ngủ ở giường bên cạnh chạy ra ngoài để nhờ nhân viên của Bệnh viện hỗ trợ. Bà T1 ra ngoài thông báo đặc điểm của người phụ nữ lấy trộm điện thoại cho điều dưỡng Đinh Thúy H2. Bà H2 điện thoại cho ông Nguyễn Văn T2 là bảo vệ của bệnh viện biết đặc điểm người phụ nữ lấy trộm. Khi đã nhận được thông tin từ bà H2, ông T2 nhìn thấy C đang chạy bộ ra cổng bệnh viện, có đặc điểm như mô tả của điều dưỡng nên ông T2 chạy bộ đuổi theo C. Khi C chạy vào hẻm S S, Phường I, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh thì vứt bỏ điện thoại di động nhãn hiệu iphone X của bà U tại trước nhà số A S, Phường I, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này, L đang đậu xe bên ngoài bệnh viện, nhìn thấy ông T2 đuổi theo C nên điều khiển xe chạy phía sau đến đụng chân của ông T2 làm ông T2 ngã, nhằm mục đích cản trở không cho ông T2 tiếp tục đuổi theo C. Khi ông T2 đuổi theo C thì có nghe C kêu L là “đi, đi”. Cùng lúc này, có ông Lý Đạt M là dân quân tự vệ của Ban chỉ huy Quân sự Phường I, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh và người dân xung quanh nhìn thấy sự việc nên hỗ trợ, đuổi theo bắt giữ C tại trước nhà số A S, Phường I, Quận E, còn ông T2 bắt giữ L và giao về Công an P, Quận E lập biên bản xử lý.

Trong lúc C và L bị bắt giữ, ông Đỗ Văn N ở trong nhà nghe tiếng tri hô nên ra trước nhà xem vụ việc gì thì nhìn thấy dưới chân chống xe của ông N có chiếc điện thoại di động hiệu iphone X. Sau đó, ông N nhặt chiếc điện thoại và giao nộp cho Công an P, Quận E.

Cùng ngày, bà Huỳnh Thị Minh U trình báo sự việc và cung cấp được mật khẩu mở khóa điện thoại là “125186”, trong dữ liệu điện thoại có lưu hình ảnh cá nhân của bà U và ảnh chụp thẻ Căn cước Công an của bà U.

Tiến hành kiểm tra, Nguyễn Thị Kim C và Đặng Thị Ngọc L dương tính với chất ma túy. Ngày 09/12/2020, Ủy ban nhân dân Phường I, Quận E lập hồ sơ đưa đi cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Thị Kim C tại Cơ sở xã hội N1. Riêng đối với Đặng Thị Ngọc L, xác minh có tạm trú tại A A, Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh và được gia đình bảo lãnh nên không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với L.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Thị Kim C và Đặng Thị Ngọc L khai nhận hành vi phạm tội như trên. C khai là người trực tiếp trộm cắp điện thoại hiệu iphone X của bà Huỳnh Thị Minh U và có nhờ L đứng ngoài cổng bệnh viện để chở C chạy tẩu thoát. C khai khi vào Bệnh viện C1 để trộm cắp tài sản, C mặc 01 áo thun dài tay màu vàng bên ngoài, mặc 01 áo thun ngắn tay màu vàng bên trong. Khi trộm cắp được điện thoại và bị bị hại phát hiện nên C vứt bỏ áo thun dài tay màu vàng mặc bên ngoài ở bãi cỏ cạnh một chậu cây trước khoa cấp cứu của Bệnh viện C1 nhằm tránh bị phát hiện.

Ngày 08/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 khởi tố vụ án, khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Thị Kim C và Đặng Thị Ngọc L về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 13/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Thị Kim C. Ngày 13/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Đặng Thị Ngọc L nhưng L bỏ trốn. Ngày 04/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 ra quyết định truy nã đối với bị can Đặng Thị Ngọc L. Quá trình trốn truy nã, Đặng Thị Ngọc L đã bị Công an Q bắt giữ theo biên bản bắt người phạm tội quả tang do có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 15/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1 đã quyết định đình nã, phục hồi điều tra vụ án đối với Đặng Thị Ngọc L.

Ngày 29/10/2021, Tòa án nhân dân Quận 5 đã tiến hành xét xử đối với Nguyễn Thị Kim C (tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh).

Vật chứng thu giữ: 01 (một) điện thoại di động hiệu iphone X, màu đen, số Imei: 356742081395755; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Fashion, biển số 67B1- 441.47 màu đỏ, số máy ZS152FMH10002134, số khung VTLWCH032TL002134 (không bửng, không kính, bể mặt nạ trước); 02 USB ghi lại hình ảnh vụ việc và bản ảnh tang vật (hiện đang lưu theo hồ sơ vụ án). Tất cả số vật chứng nêu trên đã được giải quyết tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 107/KL-HĐĐGTS ngày 09 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Quận E kết luận: Điện thoại di động hiệu Iphone X-64GB, đã qua sử dụng, tỷ lệ mới 70%, giá 6.500.000 đồng/chiếc (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng).

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Huỳnh Thị Minh U đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu bồi thường (đã được giải quyết tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh).

Bản cáo trạng số: 34/CT-VKSQ5 ngày 14/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đặng Thị Ngọc L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đặng Thị Ngọc L về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Đặng Thị Ngọc L với mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết; về vật chứng đã được giải quyết tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo Đặng Thị Ngọc L không có ý kiến bào chữa, tranh luận và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Q1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa công khai, bị cáo Đặng Thị Ngọc L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Kim C, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, bị cáo Đặng Thị Ngọc L cùng với Nguyễn Thị Kim C đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X-64GB của bà Huỳnh Thị Minh U có trị giá 6.500.000 đồng (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng) là đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét bị cáo là người trưởng thành, có đủ khả năng nhận biết được hành vi của mình, biết hành vi trộm cắp là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, Nguyễn Thị Kim C là người khởi xướng, rủ rê và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, còn bị cáo L là đồng phạm tích cực, chở C đến Bệnh viện C1 để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và đứng chờ C thực hiện xong hành vi trộm cắp tài sản để chở tẩu thoát.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự xã hội ở địa phương. Do đó, cần phải có một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo; nhằm mục đích giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại cho người bị hại xem như chưa gây thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù với một thời gian nhất định để có thể cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các Cơ quan tiến hành tố tụng của Quận E không thực hiện việc tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo L. Do bị cáo L đang bị tạm giam theo các Lệnh tạm giam của các Cơ quan tiến hành tố tụng của Quận F. Nên việc xác định thời gian tạm giữ, tạm giam để tính thời hạn chấp hành hình phạt tù sẽ được xác định bởi các Cơ quan tiến hành tố tụng của Quận F và được Tòa án nhân dân Quận 6 tổng hợp hình phạt khi xét xử đối với bị cáo L về hành vi phạm tội liên quan đến mua bán trái phép chất ma túy tại địa bàn Quận F.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo phạm tội nhưng khó khăn về kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[8] Đối với Nguyễn Thị Kim C đã bị xét xử tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về vật chứng: Đã được giải quyết tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Huỳnh Thị Minh U đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đặng Thị Ngọc L 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.

Bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 92/2023/HS-ST

Số hiệu:92/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;