TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 90/2021/HSST NGÀY 11/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 8 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 79/2021/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2021/QĐXXST-HS ngày 29/7/2021 đối với bị cáo: Họ và tên: Lê Anh Q (tên gọi khác: T); giới tính: Nam; sinh ngày 10 tháng 01 năm 1986, tại Quảng Trị; nơi ĐKHKTT và cư trú: thôn L 1, xã T, huyện C, tỉnh Quảng Trị; Q tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông Lê Quang Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1955, hiện trú tại thôn L 1, xã T, huyện C, tỉnh Quảng Trị; gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con út; vợ Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm 1991 (đã ly hôn) có 01 con sinh năm 2017; tiền sự: Không có.
Tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án số 07/2019/HSST ngày 14/3/2019, của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt Lê Anh Q 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 23/9/2020;
Nhân thân:
- Ngày 17/3/2003, Công an thị xã (nay là thành phố) Đông Hà xử phạt 50.000 đồng về hành vi “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”;
- Ngày 15/8/2003, Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Đông Hà xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Ngày 06/7/2004, Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”;
- Ngày 09/8/2013, Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
- Ngày 20/9/2013, Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ xử phạt 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
Bị cáo bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị từ ngày 20/4/2021 cho đến nay, có mặt.
2. Những người tham gia tố tụng:
- Bị hại:
+ Ông Phạm Văn M, sinh năm 1962; địa chỉ: Số 65 H, Khu phố M, phường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
+ Ông Nguyễn C, sinh năm 1964; địa chỉ: Số 11 T, Khu phố M, phường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Tuấn V, sinh năm 1993; địa chỉ: Số 18 C, Khu phố M, phường L1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Trường S, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu phố H, phường T, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
+ Ông Hoàng Viết D (tên gọi khác: V), sinh năm 1987; địa chỉ: Số 80 Lê Thế Hiếu, Khu phố B, Phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. vắng mặt.
+ Ông Ngô Đức L, sinh năm 1987; địa chỉ: thôn K 2, xã A, huyện C, tỉnh Quảng Trị, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ ngày 10 đến ngày 17/4/2021, Lê Anh Q đã 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đông Hà, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 03 giờ ngày 10/4/2021, Q đi bộ dọc các tuyến đường ở khu vực phường Đông Lương, thành phố Đông Hà, tìm nhà nào sơ hở trong quản lý tài sản để trộm cắp. Khi đi ngang qua nhà ông Nguyễn C ở số 11 đường Thân Nhân Trung, Khu phố M, phường L, Q nhìn vào thấy cửa nhà không đóng nên đã leo qua tường rào và đi vào bên trong. Q phát hiện có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo Realme 5i màu xanh để ở trên kệ sát bếp và 01 cây quạt điện hiệu Sharp màu xám trắng để ở phòng khách sát cửa ra vào. Q lấy chiếc điện thoại và cây quạt đi ra ngoài rồi đưa đến giấu ở bụi cây bên đường Lý thường Kiệt. Sau đó, Q đưa cây quạt đến cửa hàng Hưng Thịnh ở 128A đường Lý thường Kiệt thuộc khu phố M, phường L bán cho anh Nguyễn Trường S (chủ cửa hàng Hưng Thịnh) với giá 1.000.000 đồng. Q bán chiếc điện thoại di động hiệu Oppo Realme 5i màu xanh cho một người đàn ông không quen biết với giá 1.000.000 đồng. Số tiền trên Q đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 19/4/2021, Khi biết cây quạt mình mua là do Q trộm cắp mà có thì anh S đã giao nộp cây quạt cho Cơ quan điều tra.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 21/KLĐGTS ngày 20/4/2021 của Hội đồng định gái tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá cây quạt hiệu Sharp model FJ-RT181 tại thời điểm bị chiếm đoạt là 907.500 đồng và trị giá chiếc điện thoại di động hiệu PoPo Realme 5i tại thời điểm bị chiếm đoạt là 2.029.500 đồng.Tổng cộng: 2.937.000 đồng.
Vụ thứ hai: Cũng vào thời gian khoảng 03 giờ ngày 12/4/2021, Lê Anh Q đi bộ dọc các tuyến đường xem ai có sơ hở gì để lấy trộm. Khi đi ngang qua nhà anh Nguyễn Tuấn V ở số 18 đường C, Khu phố M, phường L1, thành phố Đ, Q phát hiện có 01 chiếc xe môtô hiệu HONDA Airblade mang biển kiểm soát 61F1 – 092.85 của anh V đang dựng ở hiên nhà nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Q leo qua hàng rào để vào trong thì thấy cổng nhà chỉ chốt chứ không khóa nên đi đến mở cổng rồi vào dắt chiếc xe môtô hiệu HONDA Airblade mang biển kiểm soát 61F1 – 092.85 đi ra đường, đưa về nhà cất giấu. Trên đường đi Q đã dùng tuốt nơ vít (mang theo từ trước) tháo biển kiểm soát, vứt ở một bải rác ven đường nhưng không nhớ địa điểm cụ thể. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày Q lắp biển kiểm soát 74H1-2387 (biển kiểm soát Q nhặt được từ trước) vào xe môtô đã lấy trộm và điều khiển xe đến nhà số 80 đường Lê Thế Hiếu thuộc Khu phố B, Phường M, thành phố Đ gặp anh Hoàng Viết D hỏi mượn 7.000.000 đồng và để lại chiếc xe trên làm tin. Anh D đồng ý cho Q mượn 7.000.000 đồng và giữ lại chiếc xe mô tô nói trên.
Số tiền mượn của anh D, Q đã tiêu xài cá nhân hết. Sau khi biết chiếc xe mình giữ làm tin là do Q trộm cắp mà có anh D đã giao nộp cho Cơ quan điều tra.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 20/KLĐGTS ngày 20/4/2021 của Hội đồng định gái tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá xe mô tô nhãn hiệu Airblade màu đen không biểm kiểm soát, số máy F276-0984331, số khung 2704BY153697 tại thời điểm bị chiếm đoạt là 10.000.000 đồng.
Vụ thứ ba: Vào khoảng 01 giờ ngày 17/4/2021, Lê Anh Q cũng đi bộ dọc các tuyến đường xem ai có sơ hở gì để lấy trộm. Khi đi ngang qua nhà ông Phạm Văn M tại số 65 đường H, Khu phố M, phường L, thành phố Đ, Q quan sát thấy có một chiếc xe môtô hiệu Hoda Dream II, màu nâu mang biển kiểm soát 74C1- 075.37 của ông M đang dựng ở sân nhà. Q đi đến cổng dùng tay mở vít ở chốt định vị then cổng, mở cổng rồi đi vào trong sân. Q tiến đến vị trí chiếc xe mô tô rồi dắt xe ra ngoài và đưa xe về nhà cất giấu. Trên đường đi Q đã dùng tuốt nơ vít (mang theo từ trước) tháo biển kiểm soát của xe vứt lại ở bải rác bên đường nhưng không nhớ địa điểm cụ thể. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày Q lắp biển kiểm soát 74H1- 1936 (biểm kiểm soát Q nhặt được từ trước) vào xe và điều khiển đến quán sửa xe ở 01 đường Lê Thế Hiếu, thuộc Khu phố T, Phường M, thành phố Đ gặp anh Ngô Đức L hỏi cầm xe. Anh L không đồng ý nên Q năn nỉ mượn Anh L 3.000.000 đồng. Anh L đưa cho Q muợn 3.000.000 đồng, Q đã để chiếc xe môtô hiệu Hoda Dream II lại làm tin. Ngày 18/4/2021, Q quay lại gặp Anh L hỏi bán chiếc xe trên, Anh L đã đồng ý mua với giá 5.500.000 đồng rồi đưa cho Q thêm 2.500.000 đồng (do trước đó Q đã mượn Anh L 3.000.000 đồng). Số tiền bán xe Q đã tiêu xài cá nhân hết. Ngày 19/4/2021, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà phát hiện. Biết chiếc xe mình mua là do Q trộm cắp mà có Anh L đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 22/KLĐGTS ngày 20/4/2021 của Hội đồng định gái tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá xe mô tô nhãn hiệu Dream màu nâu không biểm kiểm, soát số máy 00ME-0332346, số khung 100M-0332346 tại thời điểm bị chiếm đoạt là 12.000.000 đồng.
Vật chứng, đồ vật thu giữ:
- 01 cây quạt hiệu Sharp model FJ-RT181, màu trắng; 01 xe môtô hiệu Honda Airblade màu đen, số máy F276-0984331, số khung 2704BY153697 và 01 biển kiểm soát 74H1-2387; 01 xe môtô nhãn hiệu Dream II, màu nâu, số máy 00ME-0332346, số khung 100M-0332346 và 01 biển kiểm soát 74H1-1936; 01 tuốc nơ vít dài 24 cm, cán được làm bằng cao su dài 10 cm.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm s, r Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Anh Q (tên gọi khác:T) từ 20 đến 24 tháng tù.
+ Về trách nhiệm dân sự:
Anh Nguyễn Tuấn V; ông Phạm Văn M đã nhận lại tài sản; ông Nguyễn C đã nhận lại chiếc quạt Sharp, không yêu cầu gì nên không xem xét; anh Nguyễn Trường S không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 1.000.000 đồng nên không xem xét.
Buộc bị cáo bồi thường cho ông Nguyễn C số tiền 2.029.500 đồng. Trả lại cho anh Hoàng Viết D 7.000.000 đồng; Tại phiên tòa, anh Ngô Đức L không yêu cầu 5.500.000 đồng, - Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy 01 biển kiểm soát 74H1-2387; 01 biển kiểm soát 74H1-1936 và 01 tuốc nơ vít dài 24 cm, cán được làm bằng cao su dài 10 cm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Anh Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng, đã có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 10 đến ngày 17/4/2021, Lê Anh Q lợi dụng đêm khuya, lén lút thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản. Tài sản Lê Anh Q chiếm đoạt được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận có tổng trị giá là 24.937.000 đồng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều luật quy định khung hình phạt: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
[3] Xét về tính chất hành vi của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án xét xử và cơ quan Công an xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không lấy đó làm bài học, rút kinh nghiệm để tu dưỡng, rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội mà ngay sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, bị cáo liên tục 03 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản người khác lấy tiền tiêu xài cho bản thân. Điều đó cho thấy, bị cáo là một thanh niên có sức khỏe nhưng lười lao động, thích hưởng thụ, coi thường pháp luật. Hành vi của bị cáo đã lợi dụng đêm khuya, khi mọi người phải nghỉ ngơi sau một ngày lao động vất vả để chiếm đoạt tài sản là hết sức nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm minh với hình phạt tù có thời hạn nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo là người đang có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nhưng trong thời gian ngắn từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 4 năm 2021, liên tục thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản nên phải chịu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” và “phạm tội 02 lần trở lên”quy định tại điểm g, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ngày 19/4/2021, bị cáo bị phát hiện về hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 17/4/2021 của ông Phạm Văn M, cùng ngày bị cáo đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản vào các ngày 10 và 12/4/2021, bố bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng 3 nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, r Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần phải ban hành quyết định tạm giam để đảm bảo thi hành án.
Đối với những người mua tài sản do Lê Anh Q trộm cắp như anh Nguyễn Trường S, Ngô Đức L và anh Hoàng Viết D cho Q mượn tiền, giữ xe làm tin, những người này không biết tài sản đó do Q trộm cắp mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự.
Đối với người đàn ông mua chiếc điện thoại di động hiệu Oppo Realme 5i của Q, trong quá trình điều tra không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên chưa có cơ sở xử lý.
[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:
- Về trách nhiệm dân sự:
+ Anh Nguyễn Tuấn V và ông Phạm Văn M đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì nên không xem xét;
+ Ông Nguyễn C đã nhận lại chiếc quạt Sharp; yêu cầu bị cáo bồi thường chiếc điện thoại với số tiền 2.029.500 đồng là có căn cứ nên chấp nhận.
+ Anh Nguyễn Trường S mua cây quạt của bị cáo 1.000.000 đồng, không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền trên nên không xem xét .
+ Anh Hoàng Viết D yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 7.000.000 đồng là tiền bị cáo mượn của anh D nên cần buộc bị cáo phải trả lại số tiền trên cho anh D;
Tại phiên tòa, anh Ngô Đức L có ý kiến, không yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền 5.500.000 đồng, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về xử lý vật chứng:
+ Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 18/QĐ ngày 21/4/2021 bằng hình thức trả lại: 01 cái quạt hiệu Sharp model FJ- RT181, màu trắng cho ông Nguyễn C; 01 xe môtô hiệu Honda Airblade màu đen, số máy F276-0984331, số khung 2704BY153697 cho anh Nguyễn Tuấn V; 01 xe môtô nhãn hiệu Dream II, màu nâu, số máy 00ME-0332346, số khung 100M- 0332346 cho ông Phạm Văn M. Những bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì nên không xem xét.
+ Đối với 01 biển kiểm soát 74H1-2387 quá trình điều tra đã xác định của anh Trần Minh T bị rơi và đã xin cấp lại biển kiểm soát mới; 01biển kiểm soát 74H1-1936 đã xác định của chị TVõ Thị Q1 bị rơi đã được cấp lại biển kiểm soát mới , không ai có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu và tiêu hủy.
+ Đối với 01 tuốc nơ vít dài 24 cm, cán được làm bằng cao su dài 10 cm là công cụ, phương tiện bị cáo dùng vào việc thay đổi hiện trạng các tài sản trộm cắp mà có, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy.
Bị cáo phải nộp án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố bị cáo Lê Anh Q (tên gọi khác:T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điểm s, r Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g, Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt: Lê Anh Q (tên gọi khác:T): 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (20/4/2021).
2. Về Trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:
- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự;
Khoản 1 Điều 584; khoản 1 Điều 585 và khoản 1 Điều 589 Bộ luật dân sự, xử:
+ Buộc bị cáo phải bồi thường cho ông Nguyễn C số tiền 2.029.500 đồng.
+ Buộc bị cáo phải trả lại cho Anh Hoàng Viết D số tiền 7.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi tương ứng với số tiền chậm thi hành án, tại thời điểm thanh toán. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, xử: Tịch thu và tiêu 01 biển kiểm soát 74H1-2387; 01biển kiểm soát 74H1-1936 và 01 tuốc nơ vít dài 24 cm, cán được làm bằng cao su dài 10 cm (Vật chứng hiện có tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan Điều tra Công an thành phố Đông Hà và Cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà lập ngày 26/7/2020).
3.Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Q Hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 451.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại , người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.
Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 90/2021/HSST
Số hiệu: | 90/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về