Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 87/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 84/2022/TLST - HS ngày 04 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2022/QĐXXST - HS ngày 12 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo: Đường Văn B; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 19 tháng 9 năm 2000 tại xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng;

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: xóm B, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 10/12 phổ thông; Con ông Đường Văn C (sinh năm 1975); Con bà Ngôn Thị Th (sinh năm 1975); Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: 01 tiền sự, ngày 08/3/2022 Công an huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng ra quyết định xử phạt hành chính số 58/QĐ-XPHC, hình thức phạt: phạt tiền về hành vi Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 27/5/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)

* Bị hại: Đàm Thị U, sinh năm 1982; Nơi cư trú: xóm B, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Vắng mặt có lý do)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Mông Thế Th, sinh năm 1986; Nơi cư trú: xóm Bản Ch, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Vắng mặt có lý do) * Người làm chứng:

- Ngôn Văn L, sinh năm 1979; (Có mặt) - Đinh Thị S, sinh năm 1960; (Vắng mặt không có lý do).

- Đường Văn C, sinh năm 1974; (Vắng mặt không có lý do).

Cùng trú tại: xóm B, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/3/2022, Đường Văn B, sinh năm 2000, trú tại xóm B, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng đã bị Công an huyện Trùng Khánh xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản theo quy định điểm a khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021, mức phạt 2.500.000 đồng.

Khoảng 18 giờ ngày 04/4/2022, Đường Văn B, sinh năm 2000, trú tại B, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng biết nhà Đàm Thị U không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. B đi đến nhà Đàm Thị U, thấy cửa chốt bên trong. B liền thò ngón tay đưa qua khe hở giữa hai cánh cửa, gẩy then qua một bên, mở cửa đi vào trong bếp. Nhìn thấy một cái nồi bằng kim loại đang đặt trên khuôn bếp (loại bếp lò sử dụng để nấu cám lợn). B dùng tay nhấc ra ngoài, giấu vào bụi rậm bên đường. Sau đó, B đi về nhà lấy xe mô tô chở đi bán cho Mông Thế Th, sinh năm 1986, trú tại xóm N, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng được 200.000 đồng.

Ngày 07/4/2022, Công an xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng đã tạm giữ một chiếc nồi nhôm loại 80 lít do Mông Thế Th mang đến giao nộp.

Ngày 18/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh ra văn bản Yêu cầu định giá tài sản. Tại Kết luận định giá tài sản số 19 ngày 28/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trùng Khánh kết luận: Giá trị 01 (một) nồi kim loại không có nắp, trọng lượng 09 kg thời điểm định giá 04/4/2022 là 225.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh đã trả lại tài sản là một chiếc nồi cho chủ sở hữu Đàm Thị U. Việc trả lại tài sản trên của Cơ quan điều tra Công an huyện Trùng Khánh là đúng quy định của pháp luật.

Chiếc xe mô tô Đường Văn B sử dụng làm phương tiện chở tài sản trộm cắp đi bán là tài sản của ông Đường Văn C. Khi B sử dụng làm phương tiện chở tài sản trộm cắp đi bán, ông C không biết. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra không tạm giữ chiếc xe mô tô là đúng quy định pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản vụ việc; Biên bản làm việc; Lời khai của bị hại, lời khai người làm chứng và chứng cứ khác của vụ án.

Tại bản cáo trạng số 88/CT-VKSTK ngày 04 tháng 8 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh đã truy tố bị cáo Đường Văn B ra trước Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Đường Văn B thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh đã phản ánh đúng hành vi phạm tội của bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại Đàm Thị U trình bày: Gia đình chị có bị mất 01 (một) chiếc nồi nhôm loại 80 lít, không có nắp, trọng lượng 09 kg vào ngày 04/4/2022. Nay chị đã được nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm và đề nghị Tòa án xử lý hành vi trộm cắp của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Mông Thế Th trình bày: Anh có được mua 01 (một) chiếc nồi nhôm loại 80 lít, không có nắp, trọng lượng 09 kg với bị cáo Đường Văn B, khi mua anh không biết nguồn gốc chiếc nồi là do bị cáo B trộm cắp mà có. Nay anh không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền mà bị cáo đã nhận từ việc bán tài sản trộm cắp có được và cũng không đề nghị, yêu cầu bồi thường gì thêm.

Người làm chứng Ngôn Văn L thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh đã phản ánh đúng hành vi phạm tội của bị cáo.

Kết thúc phần xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên nhận định bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức khi thực hiện hành vi của mình nhưng vẫn cố tình phạm tội, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh vẫn giữ nguyên quan điểm như bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đường Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo B. Xử phạt bị cáo Đường Văn B từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất trộm. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trùng Khánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Qua quá trình xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đúng như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu và phù hợp với vật chứng đã thu được của bị cáo B. Cụ thể: Khoảng 18 giờ ngày 04/4/2022, tại nhà riêng bà Đàm Thị U, trú tại xóm B, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Đường Văn B trộm cắp 01 (một) chiếc nồi có giá trị 225.000 đồng (hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) của bà Đàm Thị U bán lấy tiền chi tiêu cá nhân.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo đã gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội ở địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo B nhận thức được việc làm của mình là sai, trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo B trộm cắp tài sản có giá trị 225.000 đồng (hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) là tình tiết định khung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự mới tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

Do vậy, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ để kết tội bị cáo Đường Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Trùng Khánh đã truy tố bị cáo về tội danh và Điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo B không có tiền án, có 01 tiền sự (ngày 08/3/2022 Công an huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng ra quyết định xử phạt hành chính số 58/QĐ-XPHC, hình thức phạt: phạt tiền về hành vi Trộm cắp tài sản). Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên có nhân thân xấu. Hành vi trộm cắp của bị cáo thể hiện bị cáo không có thái độ sửa đổi, không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi trộm cắp của mình và tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó, khi quyết định hình phạt cần được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không có.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đường Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản” và xử phạt bị cáo từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù. Xét thấy mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nguồn thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường đối với bị cáo B nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh đã trả lại tài sản là một chiếc nồi cho chủ sở hữu Đàm Thị U. Việc trả lại tài sản trên của Cơ quan điều tra Công an huyện Trùng Khánh là đúng quy định của pháp luật.

[8] Các nhận định khác:

Chiếc xe mô tô Đường Văn B sử dụng làm phương tiển chở tài sản trộm cắp đi bán là tài sản của ông Đường Văn C. Khi B sử dụng làm phương tiện chở tài sản trộm cắp đi bán, ông C không biết. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra không tạm giữ chiếc xe mô tô là đúng quy định pháp luật.

Đối với Mông Thế Th là người đã mua tài sản trộm cắp của Đường Văn B nhưng Th không biết nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trùng Khánh không xử lý đối với Mông Thế Th là đúng theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo Đường Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đường Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Đường Văn B 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giam ngày 25/7/2022;

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Bội.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đường Văn B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo Đường Văn B; vắng mặt bị hại Đàm Thị U và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Mông Văn Th. Bị cáo B có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại Đàm Thị U, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Mông Văn Th quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2022/HS-ST

Số hiệu:87/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;