Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 87/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2022/HSST ngày 22 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:84/2022/QĐXXST-HS ngày 15/6/2022 đối với các bị cáo:

1.Nguyễn Đức Ph, sinh năm 1984, tại Quảng Nam; ĐKTT: khu phố D, Phường S, Tp L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Quản lý trại heo; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức H và mẹ Huỳnh Thị N; vợ: Trần Thị N, có 01 con, sinh năm 2013; Bị cáo là con thứ tư trong gia đình. Tiền án, tiền sự : không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2021 đến ngày 24/11/2021 được tại ngoại.

2.Hoàng Mạnh H, sinh năm 1976 tại Hà Tĩnh; ĐKTT: xóm 6, thôn 1, xã Đ, huyện T, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Thú y viên; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Quân và bà Lê Thị K; Vợ: Hoàng Mạnh H, có 03 con, lớn nhất sinh năm 2000 và nhỏ nhất sinh năm 2008; Bị cáo là con thứ năm trong gia đình. Tiền án, tiền sự : không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2021 đến ngày 24/11/2021 được tại ngoại.

3. Nguyễn Thế B, sinh năm 1993 tại Thanh Hóa; ĐKTT: Thôn Đ, xã Th, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa, nơi cư trú: ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế L và bà Nguyễn Thị L; Vợ, con: không có; Bị cáo là con thứ B trong gia đình. Tiền án, tiền sự : không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày15/11/2021 đến ngày 24/11/2021 được tại ngoại.

4. Hà Văn T, sinh năm 1987 tại Yên Bái; ĐKTT: Thôn Đ, xã H, thị xã N, tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp:công nhân; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn Ch và bà Đổng Thị M; Vợ: Lương Thị C, có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2007 và nhỏ nhất sinh năm 2017; Bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Tiền án, tiền sự : không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2021 đến ngày 24/11/2021 được tại ngoại.

5. Hoàng Quốc B, sinh năm 2002 tại Bình Thuận; ĐKTT: xóm 6, thôn 1, xã Đ, huyện T, tỉnh Bình Thuận. Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Mạnh H và mẹ Trần Thị Ngọc Th; Vợ, con: không có; Bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Tiền án, tiền sự : không Bị cáo đang tại ngoại.

Bị hại:Công ty Cổ phần Chăn nuôi Cổ phần Việt Nam Trụ sở: Khu công nghiệp Biên Hòa II, Thành phố B, tỉnh Đồng Nai Ông Montri SuWanposri - Đại diện thep pháp luật, vắng mặt Người đại diện theo ủy quyền: ông Phan Thanh T, sinh năm 1988 ( giấy ủy quyền ký ngày 15/11/2021) Địa chỉ: 325/6C, khu phố 7, T. Tâ, Tp. B, tỉnh Đồng Nai Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Quốc Ph, sinh năm 1998, vắng mặt Địa chỉ: xóm 4, thôn 2, xã Đ, huyện T, tỉnh Bình Thuận

Anh Lê Đỗ Hưng P, sinh năm 1996, có mặt. Địa chỉ: ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai ( các bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 8/2021, Nguyễn Thế B là công nhân làm việc tại Trại heo Xuân Thành 3, thuộc ấp Tân Hợp, xã Xuân Thành, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai và Nguyễn Đức Ph là quản lý trại heo khu vực huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước thuộc Công ty Cổ phần chăn nuôi heo Cổ phần Việt Nam đã bàn bạc tìm mối bán heo con do B trộm cắp trong trại heo ra bán lấy tiền trả nợ. Đến ngày 05/11/2021, B liên lạc với Ph lấy trộm heo và thuốc thú ý trong trại heo và nhờ Ph tìm mối tiêu thụ, Ph thỏa thuận với B khi bán heo con và thuốc thú y thì chia cho Ph 15% tiền bán heo và thuốc thú ý thì B đồng ý. Để có nguồn tiêu thụ heo con khi B trộm cắp được, Nguyễn Đức Ph đã bàn bạc với Hoàng Mạnh H khi có nguồn heo con và thuốc thú y trộm cắp được của trại heo, sẽ bán cho H thì H đồng ý. Đồng thời, Ph cho B số điện thoại của H để B và H tự liên lạc, bàn bạc, thỏa thuận giá cả và việc giao nhận heo con khi B trộm cắp được. Sau khi đã bàn bạc thống nhất thì khoảng 10 giờ ngày 14/11/2021, Nguyễn Thế B đã gọi điện thoại cho Hoàng Mạnh H thông báo sẽ trộm cắp heo con và thuốc bột Amoxcilin bán cho H với giá từ 500.000 đồng đến 600.000 đồng/01 con heo con, B sẽ đưa heo và thuốc bột Amoxcilin qua hàng rào trại heo rồi chỉ địa điểm cho H đến lấy, H đồng ý. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, lợi dụng thời gian công nhân trại heo nghỉ trưa, không có người trông coi, B đã rủ Hà Văn T là công nhân Trại heo Xuân Thành 3, cùng tham gia trộm cắp heo con và thuốc bột Amoxcilin bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Sau khi bàn bạc thống nhất, T đứng ngoài cảnh giới cho B vào trại đẻ số 06, bắt 17 con heo con bỏ vào trong 06 bao đựng cám và 10kg thuốc Amoxcilin, B và T đem số heo con và thuốc bột Amoxcilin trộm cắp được đưa qua hàng rào trại heo, B gọi điện thoại cho H đến lấy. Hoàng Mạnh H đã điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen, biển số 86B7-493.52 chở con ruột là Hoàng Quốc B và thuê xe ô tô tải biển số 60C-163.93 do Nguyễn Quốc Ph điều khiển đi từ xã Đức Phú, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận đến vị trí đã hẹn trước với B tại trại heo Xuân Thành 3, B biết bố là ông H mua heo và thuốc do trộm cắp nhưng vẫn giúp đưa 06 bao đựng 17 con heo con và 10kg thuốc Amoxcilin bỏ lên tH xe ô tô chở về chuồng nuôi heo của H để nuôi dưỡng. Trong quá trình nuôi, 02 con heo đã bị chết nên H đã vứt bỏ. Sau khi P hiện heo con bị mất trộm, anh Lê Đỗ Hưng P là Trưởng trại heo Xuân Thành 3 đã báo vụ việc trên cho anh Nguyễn Văn Việt là quản lý trại heo Xuân Thành 3, thuộc Công ty cổ phần chăn nuôi Cổ phần Việt Nam trình báo Cơ quan Công an.

Ti bản kết luận định giá số 65/LK-HĐĐG ngày 18/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của UBND huyện Xuân Lộc kết luận: 17 (mười B) con heo CP, trọng lượng trung bình mỗi con 6kg, có giá trị 22.950.000 đồng; 10 kg thuộc bột Amoxcilin, có giá trị 2.960.000 đồng. Tổng giá trị bị thiệt hại là 25.910.000 đồng (Hai mươi lăm triệu chín trăm mười ngàn đồng).

Vật chứng và xử lý vật chứng:

15 con heo con, mỗi con có trọng lượng trung bình 06kg và 08 kg thuốc bột Amoxcilin. Quá trình điều tra xác định là tài sản của Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho ông Phan Thanh T là đại diện hợp pháp cho Công ty theo quy định.

01 (một) xe ô tô tải biển số 60C-163.93, nhãn hiệu Hyunhdai, màu xanh. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Nguyễn Quốc Ph. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả xe ô tô trên cho Nguyễn Quốc Ph theo quy định.

01 (một) xe mô tô biển số 86B7-493.52, nhãn hiệu Honda Wave Srx Fi, màu xám đen. Quá trình điều tra xác định là tài sản chung của Hoàng Mạnh H và vợ là Trần Thị Ngọc T. Hoàng Mạnh H sử dụng xe mô trên để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, chị T không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả xe mô tô trên cho chị Trần Thị Ngọc T theo quy định.

02 (hai) con heo đã chết, Hoàng Mạnh H đã vứt bỏ không thu hồi được.

2kg (hai) thuốc bột Amoxcilin, bị rơi mất không thu hồi được.

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9 màu xanh đen, gắn sim số 0937.735.915; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, gắn sim số 0375.816.616; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 màu đen, gắn sim số 0966.909.036.

Số tiền 21.000.000 đồng do Nguyễn Đức Ph, Nguyễn Thế B và Hoàng Mạnh H giao nộp để khắc phục thiệt hại.

Trách nhiệm dân sự: Anh Phan Thanh T là đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần chăn nuôi heo cổ phần Việt Nam đã nhận số tiền 21.000.000 đồng và không yêu cầu gì về dân sự.

Ti bản cáo trạng số 65/CT-VKS-HS ngày 15 tháng 04 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố các bị cáo Nguyễn Đức Ph, Hoàng Mạnh H, Nguyễn Thế B, Hà Văn T, Hoàng Quốc B về tội “Trộm cắp tài sản” khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc P biểu giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản cáo trạng và đề nghị HĐXX căn cứ và khoản 1 Điều 173, Điều 58, Điều 65, điểm b,i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xét xử một mức án đúng người, đúng tội.

Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo không có Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Các bị cáo Nguyễn Đức Ph, Nguyễn Thế B và Hoàng Mạnh H tự nguyện khắc phục hậu quả. Ngoài ra, các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s, khoản 1 khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị HĐXX xử phạt các bị cáo Nguyễn Đức Ph, Hoàng Mạnh H và Nguyễn Thế B từ 1 năm 2 tháng đến 1 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Hà Văn T và Hoàng Quốc B từ 6 đến 8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Đối với Nguyễn Quốc Ph tài xế xe ô tô biển số 60C-163.93 đã chở thuê 17 con heo và 10kg thuốc Amoxcilin cho Hoàng Mạnh H, Ph không biết heo con và thuốc Amoxcilin là tài sản trộm cắp, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc không đưa ra hình thức xử lý.

c bị cáo nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo cũng như không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Đức Ph, Hoàng Mạnh H, Nguyễn Thế B, Hà Văn T, Hoàng Quốc B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nội dung cáo trạng, lời khai của bị hại, người liên quan trong vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án:

Vào khoảng 10 giờ ngày 14/11/2021, tại Trại heo Xuân Thành 3, thuộc ấp Tân Hợp, xã Xuân Thành, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Đức Ph đã bàn bạc và thỏa thuận với Nguyễn Thế B trộm cắp heo và thuốc thú ý mang ra ngoài để bán cho Hoàng Mạnh H, sau đó Nguyễn Thế B đã rủ Hà Văn T giúp đưa heo và thuốc ra ngoài, Hoàng Mạnh H lại rủ thêm con trai Hoàng Quốc B vận chuyển 17 con heo con và 10 kg thuốc bột Amoxcilin, tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 25.910.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn trật tự tại địa phương. Như vậy, có cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản” tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, Nguyễn Thế B và Nguyễn Đức Ph đã liên lạc với nhau qua điện thoại để bàn bạc trộm cắp heo con trong trại heo để bán lấy tiền trả nợ. Sau đó, B đã ra rủ Hà Văn T cùng thực hiện trộm cắp heo con và thuốc thú ý ra ngoài bán cho H, H đã kêu con trai là Hoàng Quốc B giúp sức cho H đi vận chuyển heo và thuốc bột Amoxcilin từ trại heo ra xe ô tô để chở về trại heo nhà H nuôi dưỡng.

Các bị cáo Nguyễn Đức Ph, Nguyễn Mạnh Hung, Nguyễn Thế B, Hà Văn T và Hoàng Quốc B đều là phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, các bị cáo Nguyễn Đức Ph, Nguyễn Mạnh H và Nguyễn Thế B đã khắc phục được hậu quả, tài sản đã trả lại cho bị hại, do vậy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao các bị cáo Nguyễn Đức Ph, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Thế B, Hà Văn T và Hoàng Quốc B cho chính quyền địa phương quản lý cũng đủ nghiêm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Các bị cáo Nguyễn Đức Ph, Nguyễn Thế B và Hoàng Mạnh H tự nguyện khắc phục hậu quả. Ngoài ra, các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, đại diện bị hại có đơn xin bãi nại cho các bị cáo nên các bị cáo Nguyễn Đức Ph, Nguyễn Mạnh H và Nguyễn Thế B có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s, khoản 1,2, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Hà Văn T và Hoàng Quôc B có các tình tiết giảm nhẹ là i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51.

[5] Nhận định của kiểm sát viên phù hợp một phần với nhận định trên nên chấp nhận một phần.

[6] Về vật chứng vụ án: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung công: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9 màu xanh đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 màu đen; Tịch thu tiêu hủy: sim số 0966.909.036, 0937.735.915 và 0375.816.616.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Công ty cổ phần Chăn nuôi cổ phần Việt Nam do anh Phan Thanh T nhận số tiền khắc phục và không yêu cầu bồi thường thêm nê n không xem xét giải quyết.

[8] Đối với Nguyễn Quốc Ph tài xế xe ô tô biển số 60C-163.93 đã chở thuê 17 con heo và 10kg thuốc Amoxcilin cho Hoàng Mạnh H, Ph không biết heo con và thuốc Amoxcilin là tài sản trộm cắp, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc không đưa ra hình thức xử lý.

[9] Về án phí: bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức Ph, Hoàng Mạnh H, Nguyễn Thế B, Hà Văn T, Hoàng Quốc B phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

n cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015; các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Nghị Quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Đức Ph 16( Mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32( ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Xử phạt: bị cáo Hoàng Mạnh H 16( Mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32( Ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế B 16 ( Mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32( Ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015; c điểm i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Nghị Quyết 02/2018 ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

Xử phạt: bị cáo Hà Văn T 07 (B) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 ( Mười bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Xử phạt bị cáo Hoàng Quốc B 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Giao bị cáo Nguyễn Đức Ph cho Ủy ban nhân dân Phường Suối Tre, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Giao bị cáo Hoàng Mạnh H, Hoàng Quốc B cho Ủy ban nhân dân xã Đức Phú, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Giao bị cáo Nguyễn Thế B, Hà Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Xuân Thành, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự quy định: “Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung công: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9 màu xanh đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 màu đen; Tịch thu tiêu hủy: sim số 0966.909.036, 0937.735.915 và 0375.816.616.

Về án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các Nguyễn Đức Ph, Hoàng Mạnh H, Nguyễn Thế B, Hà Văn T, Hoàng Quốc B mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

c bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2022/HS-ST

Số hiệu:87/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;