TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 87/2021/HSST NGÀY 26/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở UBND xã Tam Đa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 84/2021/HSST ngày 30/6/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2021/QĐXXST-HS ngày 12/7/2021 đối với bị cáo:
Phạm Văn H, sinh năm 1987
Nơi cư trú: Khu 4, phường Phú S, thị xã Bỉm S, tỉnh Thanh Hóa.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Duy T và bà Lê Thị V; Vợ, con: chưa có.
Tiền án: Bị cáo có 03 tiền án.
+ Tại Bản án số 03/2016/ HSST, ngày 19/01/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm S, tỉnh Thanh Hóa xử phạt Phạm Văn H 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1, Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngày 17/9/2016, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Bản án chưa được xóa án tích.
+ Tại Bản án số 09/2017/HSST, ngày 21/4/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm S, tỉnh Thanh Hóa xử phạt Phạm Văn H 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1, Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999. Ngày 20/12/2017, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Bản án chưa được xóa án tích.
+ Tại Bản án số 44/2018/HS-ST, ngày 29/8/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm S, tỉnh Thanh Hóa xử phạt Phạm Văn H 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g, Khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015. Ngày 04/9/2020, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Bản án chưa được xóa án tích.
Tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/4/2021 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1984. Vắng mặt Trú tại: Trần Xá, Yên Trung, Yên Phong, Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Văn H hiện đang ở trọ tại thôn Trần Xá, xã Yên Trung, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh là đối tượng đã có 03 (ba) tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Do không có tiền nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy để sử dụng. Khoảng hơn 7 giờ sáng ngày 25/4/2021, H đi bộ từ phòng trọ, lang thang trong khu vực thôn Trần Xá, xã Yên Trung, huyện Yên Phong, mục đích xem ai có tài sản sở hở thì trộm cắp. Khi H đi đến quán bán đồ ăn sáng của anh Nguyễn Văn T thì phát hiện gần cửa quán có 01 thùng xốp không có nắp đậy, bên trong có 01 tập tiền buộc bằng dây chun màu xanh và xung quanh không có người trông giữ. H đi đến gần thùng xốp rồi dùng tay pH lấy tập tiền còn tay trái móc chiếc ví từ trong túi quần của H đang mặc định đút tiền vào thì bị anh T bắt quả tang. Ngay sau đó, trước sự chứng kiến của H và chị Vũ Thị Chuyên, anh T đếm tập tiền mà H vừa trộm cắp của anh được số tiền 2.150.000 đồng (hai triệu một trăm năm mươi nghìn đồng). Ngay sau đó, anh T đã làm đơn trình báo Công an xã Yên Trung về nội dung sự việc.
*Về vật chứng thu giữ:
- Số tiền 2.150.000 đồng (hai triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) gồm: 02 (hai) tờ polime Mệnh giá 500.000 đồng; 10 (mười) tờ polime mệnh giá 100.000 đồng;
03 (ba) tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng.
- 01 (một) ví da màu nâu đã qua sử dụng bên trong có 01 (một) chứng minh nhân dân số 172048358 mang tên Phạm Văn H do Công an tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 04/6/2015; 01 (một) thẻ ATM số 970410106415030 mang tên Phạm Văn H của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam trên người H.
Bản cáo trạng số 82/CT-VKSYP, ngày 29 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố Phạm Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS.
Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng và khai nhận về hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.
Người bị hại là anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng qua lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Khoảng 8 giờ 20 phút ngày 25/4/2021 khi anh T đang bán hàng ăn sáng tại Trần X thì phát hiện Phạm Văn H đứng cạnh thùng xốp để tiền của quán và dùng 1 tay lấy tiền trong thùng xốp đưa vào ví của H. Anh T liền chạy ra bắt quả tang H về hành vi trộm cắp và báo công an đến giải quyết. Tại quán anh đã kiểm đếm số tiền H trộm cắp là 2.150.000 đồng gồm: 02 tờ polime Mệnh giá 500.000 đồng; 10 tờ polime mệnh giá 100.000 đồng; 03 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng. Nay anh H yêu cầu được trả lại số tiền 2.150.000đ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho xã hội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 48 BLHS; Điều 106 BLTTHS xử phạt bị cáo từ 30 đến 32 tháng tù. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
Về vật chứng:
Trả lại bị cáo 01 (một) chứng minh nhân dân số 172048358 mang tên Phạm Văn H do Công an tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 04/6/2015; 01 (một) thẻ ATM số 970410106415030 mang tên Phạm Văn H của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam; 01 (một) ví da màu nâu đã qua sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự: Trả lại cho anh Nguyễn Văn T 2.150.000đ.
Bị cáo nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Yên Phong, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng đã thu hồi được và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phạm Văn H là người đã phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích, nhưng vào khoảng 08 giờ 20 phút ngày 25/4/2021, tại quán bán đồ ăn sáng của anh Nguyễn Văn T ở thôn Trần Xá, xã Yên Trung, huyện Yên Phong, Phạm Văn H lại trộm cắp số tiền 2.150.000 đồng của anh T. Do vậy, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản" theo điểm g, khoản 2, Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn, hối cải nên bị cáo được hưởng các tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, cũng cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
[4] Về vật chứng:
- Đối với 01 (một) ví da màu nâu đã qua sử dụng; Đối với 01 (một) chứng minh nhân dân số 172048358 mang tên Phạm Văn H do Công an tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 04/6/2015; 01 (một) thẻ ATM số 970410106415030 mang tên Phạm Văn H của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam là tài sản của bị cáo không dùng vào việc phạm tôi nên cần trả lại bị cáo.
- Cơ quan điều tra thu giữ số tiền 2.150.000 đồng của anh Nguyễn Văn T, nay anh yêu cầu trả lại nên cần trả lại số tiền này cho người bị hại.
[5] Về án phí: Bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS:
Xử phạt: Phạm Văn H 32 (Ba mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/4/2021. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (26/7/2021) theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Trả lại bị cáo Phạm Văn H 01 (một) ví da màu nâu đã qua sử dụng; 01 (một) chứng minh nhân dân số 172048358 mang tên Phạm Văn H do Công an tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 04/6/2015; 01 (một) thẻ ATM số 970410106415030 mang tên Phạm Văn H của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam.
Trả lại cho anh Nguyễn Văn T 2.150.000đ. Vật chứng và tiền đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên phong, tỉnh Bắc Ninh.
Áp dụng Điều 136; Điều 329; 331; 332 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo pH chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 87/2021/HSST
Số hiệu: | 87/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về