TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 86/2021/HS-ST NGÀY 02/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2021/HSST ngày 17/3/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/QĐXX -ST ngày 18/3/2021, đối với bị cáo:
Ngô Quang V- Sinh 1979; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; HKTT và chỗ ở: số 15, tổ 7, phường T, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội;Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 4/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Họ tên bố: Ngô Quang H( đã chết); Họ tên mẹ: Trần Thị N; Có vợ là Nguyễn Thị Mai K ( đã chết); Có 01 con sinh 2005;Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 543/HSST ngày 11/6/1996 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội Cướp tài sản của công dân; 03 năm tù về tội Hiếp dâm( Phạm tội khi 15 tuổi 09 tháng 01 ngày). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/12/2002;
Bản án hình sự sơ thẩm số 360/2020/HSST ngày 22/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 17 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản( đang chấp hành hình phạt).
- Tiền sự: 01 tiền sự đi cai nghiện bắt buộc năm 2008.
Ngày 24/3/2021 bị bắt thi hành bản án hình sự sơ thẩm số 360/2020/HSST ngày 22/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng. ( Có mặt) Bị hại: anh Nguyễn Trọng H- Sinh 1973 và chị Lê Thị H- Sinh 1980; Trú tại: số 23, tổ 1A, phường T, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. ( Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ 30’ ngày 02/12/2018, Ngô Quang V đi bộ, phát hiện chiếc xe máy Honda Dream, biển kiểm soát 29R5-0144 của anh Nguyễn Trọng H đang dựng trước cửa số nhà 23, tổ 1A, phường T, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. V quan sát thấy không có người trông coi, chìa khóa điện xe máy vẫn cắm trong ổ khóa. V đi đến gần, lên xe, mở khóa điện điều khiển xe phóng đi.
Lời khai ban đầu, V khai đi xe máy đến cuối ngõ 84 Kim Ngưu cầm cố xe máy cho Lê Anh P được 02 triệu đồng. Sau đó V thay đổi lời khai là bán xe máycho một người không quen biết tại khu vực ngõ 100 phố Kim Ngưu với giá 2.000.000đ. Số tiền bán xe máy, V đã tiêu xài hết.
Cơ quan điều tra đã triệu tập Lê Anh P đến cơ quan điều tra. P khai có quen biết V khi ở cùng Trại cai nghiện Đông Anh, Hà Nội. Từ khi kết thúc cai nghiện, P không gặp lại V, không có việc P nhận cầm cố xe máy như V khai. Quá trình điều tra không xác định được P liên quan đến hành vi phạm tội của V, nên cơ quan điều tra không xử lý P.
Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 41/KL-HĐ ĐGTS ngày 15/3/2019 và Công văn số 116/HĐĐGTS ngày 23/11/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hai Bà Trưng đã kết luận: giá trị tài sản cần định giá theo yêu cầu định giá tài sản số 68/CQĐT-HS ngày 09/4/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hai Bà Trưng: 01 xe máy Honda Dream, biển kiểm soát 29R5-0144, số máy và số khung 8233188, xe đã qua sử dụng là 12.000.000đ( Mười hai triệu đồng).
Đối với chiếc xe máy nêu trên, quá trình điều tra chưa thu giữ được. Anh Hải không yêu cầu đề nghị bồi thường dân sự.
Tại Bản cáo trạng số 69/CT/VKS-HBT ngày 10/3/2021, VKSND quận Hai Bà Trưng đã truy tố Ngô Quang V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng căn cứ lời khai thừa nhận của các bị cáo tại phiên tòa, cũng như trong quá trình điều tra; Căn cứ lời khai của người bị hại, người làm chứng; Căn cứ Kết luận định giá tài sản, đã xác định bị cáo Ngô Quang V phạm tội Trộm cắp tài sản.
Sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 7 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt Ngô Quang V từ 12 đến 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt 17 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của bản án hình sự sơ thẩm số 360/2020/HSST ngày 22/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền bị cáo;
Về dân sự: bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự, nên không xem xét. Buộc bị cáo truy nộp sung công số tiền 02 triệu đồng bán xe máy.
Bị cáo công nhận nội dung bản cáo trạng, lời luận tội của Viện kiểm sát là đúng hành vi bị cáo thực hiện. Bị cáo xác nhận có tội, không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.
Bị cáo xác nhận thực hiện hành vi trộm cắp xe máy của gia đình anh Hải đúng như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo xác nhận có tội, không tranh luận gì với Kiểm sát viên.
phạt.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Xét hành vi của bị cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa; Căn cứ lời khai của bị hại, người làm chứng; Bản kết luận định giá trong tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận: ngày 02/12/2018, Ngô Quang V lợi dụng sơ hở của anh Nguyễn Trọng H(để xe máy Honda Dream, biển kiểm soát 29R5- 0144 trước cửa nhà không rút chìa khóa điện, không có người trông coi) chiếm đoạt chiếc xe máy trị giá 12 triệu đồng của vợ chồng anh H.
Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của Ngô Quang V là nguy hiểm cho xã hội, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân, gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Nhân thân bị cáo có Bản án hình sự sơ thẩm số 543/HSST ngày 11/6/1996 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội Cướp tài sản của công dân; 03 năm tù về tội Hiếp dâm. Bị cáo phạm tội khi 15 tuổi 09 tháng 01 ngày. Theo tài liệu xác minh thi hành án, bị cáo chưa nộp tiền án phí. Tuy nhiên căn cứ khoản 7 Điều 91 Bộ luật hình sự tại: Bản án này không để tính tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Bản án hình sự sơ thẩm số 360/2020/HSST ngày 22/12/2020, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo 17 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Hành vi phạm tội trong bản án này của bị cáo thực hiện sau hành vi phạm tội lần này, nên không xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Quyết định hình phạt: bị cáo có nhân thân xấu, lười lao động, nên cần thiết phải xử phạt bị cáo hình phạt tù giam cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm trộm cắp tài sản.
Xét thấy ngày 24/3/2021, bị cáo bị bắt để chấp hành hình phạt tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 360/2020/HSST ngày 22/12/2020. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự: tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
Biện pháp tư pháp: Chiếc xe máy bị cáo trộm cắp không thu hồi được, bị cáo không bồi thường cho bị hại. Tuy nhiên bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự, nên không xem xét.
Buộc bị cáo truy nộp sung công quỹ nhà nước số tiền 02 triệu đồng do bán xe máy trộm cắp.
Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Bị cáo, Bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 7 Điều 91 Bộ luật hình sự; Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Xử phạt Ngô Quang V 18 (Mười tám) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt 17( Mười bảy) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của của bản án hình sự sơ thẩm số 360/2020/HSST ngày 22/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 35( Ba mươi lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (ngày 24/3/2021) theo bản án hình sự sơ thẩm số 360/2020/HSST ngày 22/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Hình phạt bổ sung: miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.
Biện pháp tư pháp: Bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự, nên không xem xét. Buộc bị cáo truy nộp sung công quỹ nhà nước số tiền 02 triệu đồng do bán xe máy trộm cắp.
Về án phí: bị cáo Ngô Quang V phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 86/2021/HS-ST
Số hiệu: | 86/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về