Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 85/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Thành L, sinh năm 1988 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 11, phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở hiện nay: Khu phố 11, phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Lao động biển; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Văn B (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị C, sinh năm 1970; Gia đình có 04 anh, em; Bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Không có.

Tiền án: Ngày 27/5/2021 bị Tòa án nhân dân thị xã L xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số: 52/2021/HS-ST ngày 27/5/2021, bị cáo chấp hành xong hình phạt vào ngày 05/7/2022, tính đến ngày phạm tội mới ngày 15/5/2023 bị cáo chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 23/7/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố P.T, tỉnh Bình Thuận xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Ông Cao Thanh D – sinh năm 1993. Vắng mặt. HKTT: Thôn Thanh Linh, xã Tân Ph, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 15.5.2023, bị cáo Nguyễn Thành L mượn xe mô tô biển số 86B6 – X của gia đình để đi chơi. Khi đi qua khu vực cầu suối đó trên đường Quốc lộ 55 thuộc thôn Phước Tiến, xã Tân Ph, thị xã L, L nhìn thấy quán L, quan sát tại quán không có người nên nảy sinh ý định vào trộm cắp tài sản. L dựng xe trước quán và đi vào trong nhìn thấy tại nhà vệ sinh có 02 cánh cửa sắt (mỗi cánh rộng khoảng 50 cm, dài khoảng 01 m) bị cáo L lén lút tháo ra chở đến tiệm thu mua nhôm nhựa ở khu phố 5, phường Tân An bán cho chị Vũ Thị T với giá 85.000 đồng. Khi L lấy trộm cửa sắt thì anh Cao Thanh D – là chủ quán đang theo dõi camera ở quán nhìn thấy đã đi tìm, phát hiện L trên đường nên giữ lại và trình báo Công an. Quá trình làm việc với Công an, L đã thừa nhận hành vi của mình.

*Tại Kết luận định giá tài sản số: 28/KL-ĐGTS ngày 26/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã L, kết luận: 02 cánh cửa bằng kim loại, màu xám, mỗi cánh kích thước 0,5m x 01 m, trọng lượng 13 kg, đã qua sử dụng, có giá trị là 130.000 đồng.

Về vật chứng vụ án: 02 cánh cửa bằng kim loại, màu xám, mỗi cánh kích thước 0,5m x 01 m, trọng lượng 13 kg, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L đã trả cho chủ sở hữu là ông Cao Thanh D.

Về dân sự: Sau khi bị hại Cao Thanh D nhận lại tài sản thì không yêu cầu gì về phần dân sự.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân của bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng số: 83/CT-VKSLG-HS ngày 07/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Nguyễn Thành L, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành L, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm b Khoản 1 Điều 173, Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L từ: 18 đến 24 tháng tù.

- Ý kiến của bị cáo Nguyễn Thành L: Đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên, nên không có ý kiến tranh luận.

* Bị cáo Nguyễn Thành L nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự có mặt của người tham gia tố tụng tại phiên tòa: Bị hại ông Cao Thanh D vắng mặt. Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo là đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy, việc vắng mặt của bị hại không gây trở ngại cho việc xét xử, vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội: Xét thấy, lời khai của bị cáo Nguyễn Thành L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở và căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử kết luận: Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 15/5/2023, bị cáo Nguyễn Thành L đã có hành vi lén lút trộm cắp 02 cánh cửa sắt, kích thước mỗi cánh rộng 0,5m x 01 m, trọng lượng 13 kg, trị giá 130.000 đồng tại thôn Phước Tiến, xã Tân Ph, thị xã L của anh Cao Thanh D.

Qua đó cho thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Thành L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thành L về tội danh, điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo Nguyễn Thành L đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của người khác để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, do đó hành vi của bị cáo là xem thường pháp luật, ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa phương và nguy hiểm cho xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không; Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo L thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo đã nhận thức rõ được “Trộm cắp tài sản” của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi ích bản thân, bị cáo bất chấp. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo lao động, học tập, giáo dục trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã giải quyết xong.

[9] Về dân sự: Quá trình điều tra đã giải quyết xong.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thành L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo Nguyễn Thành L bị bắt thi hành án phạt tù.

Về án phí:

Bị cáo Nguyễn Thành L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thành L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (06/9/2023). Riêng bị hại ông Cao Thanh D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2023/HS-ST

Số hiệu:85/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;