Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN-TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 85/2022/HS-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2021/HSST ngày 29/12/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2022/QĐXXST-HS ngày 26/01/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Ngọc H, sinh năm: 1992; Nơi cư trú hiện nay: Thôn Đ.B, xã N.T, thị xã A.N, tỉnh B.Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Tin lành; Con ông: Võ N.H, sinh năm: 1972 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1974; Em ruột: Võ N.H, sinh năm: 1996; Vợ, con: H.Hp, sinh năm: 1984; Con ruột: Có 02 người (lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2015).

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 24/6/2018 bị Cơ quan CSĐT- Công an thị xã A.N, tỉnh B.Đ khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 14/12/2021 bị Tòa án nhân dân thị xã A.N, tỉnh B.Đ xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị bắt tạm giam: Ngày 20/10/2021 (Theo quyết định truy nã), hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Q.N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

Anh Ngô Văn T, sinh năm: 1972. Địa chỉ: Tổ 2, khu vực 8, phường N.P, thành phố Q.N, tỉnh B.Đ. (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Võ Ng.Hi, sinh năm: 1998. Địa chỉ: Thôn Đ.B, xã N.T, thị xã A.N, tỉnh B.Đ. (vắng mặt).

Ông Võ N.H, sinh năm: 1972. Địa chỉ: Thôn Đ.B, xã N.T, thị xã A.N, tỉnh B.Đ. (vắng mặt).

Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1974. Địa chỉ: Thôn Đ.B, xã N.T, thị xã A.N, tỉnh B.Đ. (vắng mặt).

Chị H.Hp, sinh năm:1984. Địa chỉ: Thôn Đ.B, xã N.T, thị xã A.N, tỉnh B.Đ. (vắng mặt).

- Người làm chứng:

Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1989. Trú tại: Thôn L.V, xã X.L, huyện Đ.X, tỉnh P.Y. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08h00 ngày 17/3/2018, Võ Ngọc H đón xe khách đi từ thị xã A.N vào thành phố Q.N để trộm xe mô tô bán lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng 11h00 cùng ngày, H đi bộ trên đoạn đường từ ao cá Bác Hồ theo đường Tây Sơn, hướng về ngã ba Phú Tài thì phát hiện xe mô tô Sirius biển số 77L1-202.37 của anh Ngô Văn T dựng trước nhà trọ ở Tổ 2, KV8, phường N.P, thành phố Q.N, tỉnh B.Đ không người trông coi nên đến lấy trộm xe. H sử dụng thanh sắt mỏng mang theo sẵn cắm vào ổ khóa điện vặn phá khóa, khởi động xe rồi điều khiển xe chạy về TX. A.N làm phương tiện đi lại. Ngày 17/6/2018, Hưng điều khiển xe mô tô 77L1-202.37 cùng Võ Ng.Hi (SN: 1998 - Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ.B, xã N.T, thị xã A.N, tỉnh B.Đ) điều khiển xe mô tô biển số 77F1-006.63 đi đến xã X.L, Đ.X, P.Y để bán xe thì bị Công an huyện Đ.X, P.Y tạm giữ và bàn giao cho Công an TX. A.N, B.Đ giải quyết theo thẩm quyền. Quá trình điều tra, Võ Ngọc H đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp nêu trên.

Ngày 20/8/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Q.N kết luận: Xe mô tô Sirius biển số 77L1-202.37, số khung: 40CY-825869, số máy: 5C64-825894, đã qua sử dụng trị giá 7.000.000 đồng.

Cơ quan CSĐT - Công an TP. Q.N đã tạm giữ và trả lại cho chủ sở hữu: Xe mô tô Sirius biển số 77L1-202.37, số khung: 40CY-825869, số máy: 5C64- 825894.

Về dân sự: Bị hại anh Ngô Văn T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKSQN ngày 29/12/2021 Viện kiểm sát nhân dân TP. QN truy tố Võ Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Võ Ngọc H từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Áp dụng Điều 55, 56 BLHS tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với bị cáo.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại anh Ngô Văn T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Bị cáo bào chữa: Bị cáo nhận tội, không bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận, xin Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q.N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Võ Ngọc H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 08h00 ngày 17/3/2018, Võ Ngọc Hưng đón xe khách đi từ thị xã A.N vào thành phố Q.N để trộm xe mô tô bán lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng 11h00 cùng ngày, H đi bộ trên đoạn đường từ ao cá Bác Hồ theo đường Tây Sơn, hướng về ngã ba Phú Tài thì phát hiện xe mô tô Sirius biển số 77L1-202.37 của anh Ngô Văn T dựng trước nhà trọ ở Tổ 2, KV8, phường N.P, thành phố Q.N, tỉnh B.Đ không người trông coi nên đến lấy trộm xe. H sử dụng thanh sắt mỏng mang theo sẵn cắm vào ổ khóa điện vặn phá khóa, khởi động xe rồi điều khiển xe chạy về TX. A.N làm phương tiện đi lại. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Q.N kết luận: Xe mô tô Sirius biển số 77L1-202.37, số khung: 40CY-825869, số máy: 5C64-825894, đã qua sử dụng trị giá 7.000.000 đồng.

Tại phiên Tòa hôm nay bị cáo Võ Ngọc H còn khai nhận đã cùng với Võ Ng.Hi trộm cắp của bà Huỳnh Thị L chiếc xe mô tô 77S9-0943 kiểu dáng DREAM và chiếc xe mô tô 77F1-00663, loại xe SIRIUS màu đỏ đen của anh Huỳnh Xuân S. Ngày 14/12/2021 bị cáo Võ Ngọc H đã bị Tòa án nhân dân thị xã A.N xử phạt 18 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo bản án số:

12A/2021/HS-ST ngày 14/12/2021, bản án đã có hiệu lực thi hành.

[3] Bị cáo Võ Ngọc H có đầy đủ sức khỏe, có trình độ học vấn nhất định, đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nên biết rất rõ tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, nhưng vì tham lam, lười lao động và xem thường pháp luật nên bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại nên bị cáo đã lấy trộm xe máy của họ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội ở địa phương nên cần xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Tuy nhiên, tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo an tâm cải tạo.

[4] Bồi thường thiệt hại:

- Anh Ngô Văn T đã nhận lại tài sản bị cáo chiếm đoạt là chiếc xe mô tô Yamaha-Sirius màu vàng đen, biển số 77L1-20237 số khung: 40CY-825869, số máy: 5C64-825894, anh T không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về vấn đề khác:

- Đối với ông Võ N. H (cha ruột của H) và gia đình không biết rõ là xe do Hưng phạm tội mà có nên không phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

[6] Về án phí:

Bị cáo bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Võ Ngọc H 12 (mười hai) tháng tù, tổng hợp hình phạt 18 tháng tù của bản án số 12A/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân thị xã A.N, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 30 (ba mươi) tháng tù, được trừ vào thời gian bị tạm giữ từ ngày 18/6/2018 đến ngày 24/6/2018. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/10/2021.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-ST

Số hiệu:85/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;