Bản án về tội trộm cắp tài sản số 83/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 83/2020/HS-ST NGÀY 22/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

  Ngày 22 tháng 06 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 87/2020/TLST-HS ngày  09  tháng  6  năm  2020;  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số: 78/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Mạnh H; (Tên gọi khác: Không); sinh năm 1989; tại: Nghệ An; giới tính: Nam; ĐKNKTT và Chỗ ở: Thôn 5, xã S, huyện A, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Con ông: (Không rõ) và con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1958; Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ 02; Vợ con: chưa có; danh chỉ bản số 0148 lập ngày 01/04/2020 tại Công an huyện K, Thành phố Hà Nội; nhân thân: tiền án: không; tiền sự: không. Bị cáo bị bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 24/3/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện K. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

*Người bị hại: Công ty TNHH một thành viên N; Địa chỉ trụ sở: Số 1, đường V, phường V, quận B, TP Hà Nội; Đại diện theo pháp luật ông Nguyễn Anh Tuấn - Chức vụ: Tổng giám đốc công ty;

Người đại diện theo ủy quyền của công ty: Ông Lê Tuấn V sinh 1962 - Chức vụ: Chánh văn phòng (theo giấy ủy quyền số  18/CTCS/UQ ngày 24/3/2020); (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phạm Thị M, sinh năm 1964; Trú tại: Thôn C, xã J, huyện K, TP. Hà  Nội. (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa) 

2. Chị Phan Thị V, sinh năm 1981; Trú tại: Thôn J, xã J, huyện K, TP. Hà  Nội. (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội V vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23h30 ngày 23/3/2020, tại khu vực ngõ cạnh chùa J, K, Hà Nội, tổ công tác Công an xã J đang thực hiện nhiệm vụ tuần tra phát hiện Cao Mạnh H đang khoác trên vai 01 balo màu đen có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong balo của H có 01 kìm cộng lực màu xanh, 01 mỏ lết màu bạc,  01 đèn pin, 01 dao gọt hoa quả, 01 dao dọc giấy, 09 đoạn lõi dây điện bằng đồng dài khoảng 40cm, 01 đoạn dây đồng dài khoảng 120cm và 02 vật thể có ren xoáy ốc chất liệu đồng. H khai nhận số đồ vật trên là công cụ dùng để thực hiện hành vi trộm cắp dây cáp điện và số đồng là trong dây cáp điện mà H vừa lấy trộm tại Trạm biến áp đối diện Cổng phụ công ty Z76, thôn G, J, K, Hà Nội. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ vật chứng và đưa H về Cơ quan Công an để làm rõ.

Vật chứng Cơ quan Công an huyện K thu giữ của Cao Mạnh H: 01 chiếc balo màu đen đựng 01 đoạn dây đồng dài 120cm; 09 đoạn dây đồng dài 40cm; 02 vật có ren xoáy ốc; 01 chiếc kìm cộng lực; 01 chiếc mỏ lết màu bạc; 01 dao dọc giấy; 01 dao gọt hoa quả; 01 đèn pin; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, vỏ màu trắng, máy cũ đã qua sử dụng; 01 chiếc đồng hồ bằng kim loại màu vàng;

01 chiếc đồng hồ đã bị vỡ mặt kính, dây bằng cao su đen; 01 ví giả da màu nâu; 02 chiếc nhẫn kim loại màu bạc; và số tiền 1.550.000 đồng. (BL 38, 39)  Cơ quan điều tra, Công an huyện K đã tiến hành dẫn giải Cao Mạnh H xác định được vị trí trạm biến áp nơi H thực hiện hành vi trộm cắp; kiểm tra, xác định và đo đạc những tài sản bị Cao Mạnh H trộm cắp gồm có: 360m cáp dây điện loại cáp 4x70mm và 40m cáp dây điện loại cáp 4x50mm. (BL 42, 58)   Cơ quan điều tra, Công an huyện K đã thu giữ của chị Phan Thị V, sinh năm  1981; trú tại thôn J, xã J, huyện K, thành phố Hà Nội 26,5kg dây đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau và thu giữ của bà Phạm Thị M, sinh năm  1964; trú tại thôn C, xã J, huyện K, thành phố Hà Nội 28kg dây đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau. (BL 100, 116).

Quá trình điều tra đã làm rõ nội V sự việc như sau: Bắt đầu từ đầu tháng  03/2020, do thiếu tiền tiêu xài cá nhân nên H đã vào trạm điện ở thôn O, J, K, Hà  Nội mục đích để lấy trộm tài sản. H đã chuẩn bị 01 chiếc kìm cộng lực, 01 mỏ lết,  01 dao dọc giấy, 01 đèn pin để phục vụ việc cắt trộm cáp điện lấy đồng đi bán. H dùng kìm cắt cáp điện đã chuẩn bị sẵn để cắt nhiều đoạn cáp điện trong trạm điện. Sau khi cắt xong, H dùng dao để tách vỏ dây điện lấy phần lõi đồng bên trong. Sau khi tách được phần lõi đồng, H đã mang số đồng lấy được bán ở nhiều cửa hàng thu mua phế liệu khác nhau trong xã J, K, Hà Nội. Cụ thể: khoảng đầu tháng  03/2020, H đã bán được khoảng 200kg đồng cho cửa hàng thu mua phế liệu tại thôn J, xã J, huyện K, thành phố Hà Nội. Khoảng giữa tháng 03/2020, H đã bán  28kg đồng cho cửa hàng thu mua phế liệu của bà Phạm Thị M được 2.800.000 đồng. Ngày 22/3/2020, H đã bán 26,5kg đồng cho cửa hàng thu mua phế liệu của chị Phan Thị V được 2.650.000 đồng. Số tiền này H đã tiêu sài cá nhân hết  1.100.000 đồng còn lại 1.550.000 đồng sau đó đi về trạm điện O ngủ. Đến khoảng  23h30 ngày 22/3/2020, H dậy và tiếp tục thực hiện hành vi cắt trộm cắp điện. Trên  đường mang số lõi đồng ăn trộm được đi khỏi trạm điện thì H bị Cơ quan công an  huyện K kiểm tra, phát hiện và bắt giữ.

Tại kết luận định giá tài sản số 44/KL-HĐĐG ngày 22/4/2020 của HĐĐG tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: 360m cáp dây điện, vỏ màu đen, lõi đồng, loại cáp 4x70mm, đã qua sử dụng, có tổng giá trị: 133.200.000 đồng (370.000/mét) (Bằng chữ: Một trăm ba mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng); 40m dây cáp điện vỏ màu đen, lõi đồng, loại cáp 4x50mm, đã qua sử dụng, có tổng giá trị 11.600.000 đồng (290.000/mét) (Bằng chữ: Mười một triệu sáu trăm nghìn đồng) (BL 31).

Tại Cơ quan điều tra, Công an huyện K, Cao Mạnh H đã khai nhận toàn bộ  hành vi trộm cắp tài sản như đã nêu trên.

Với nội V trên tại Bản cáo trạng số 100/CT-VKSGL, ngày 31/05/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã quyết định truy tố bị cáo Cao Mạnh H ra trước tòa với tội danh “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm c khoản 2  Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo Cao Mạnh H đã thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại Cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận vào khoảng thời gian từ đầu tháng 3 năm 2020, giữa tháng 3 năm 2020 và ngày  22/3/2020 tại Trạm biến áp thôn O, xã J, huyện K, thành phố Hà Nội, bị cáo đã có  hành vi trộm cắp tài sản là 360m cáp dây điện loại cáp 4x70mm và 40m cáp dây  điện loại cáp 4x50mm để lấy đồng đem đi bán lấy tiền tiêu sài cho bản thân, toàn bộ số cáp dây điện bên trong là lõi dây đồng bị cáo đã trộm cắp có tổng giá trị là: 144.800.000đ (Một trăm bốn mươi bốn triệu tám trăm nghìn đồng).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Thành phố Hà Nội thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số  100/CT-VKSGL, ngày 31/05/2020. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo đã đưa ra những chứng cứ, lý lẽ kết tội đối với bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cao Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản  1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Cao Mạnh H mức án phạt tù từ 42 tháng tù đến 48 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/3/2020.

Quá trình điều tra, bà Phạm Thị M và chị Phan Thị V đã nhận dạng và khẳng định Cao Mạnh H là người bán số đồng cho bà M và chị V. Khi mua số đồng trên, bà M và chị V không hề biết nguồn gốc số đồng trên do H trộm cắp đồng thời tự nguyện giao nộp số đồng đã mua nên Cơ quan Cảnh sát điều tra -  Công an huyện K không xem xét, xử lý.

Đối với cửa hàng thu mua phế liệu tại thôn J, J, K, Hà Nội, cơ quan điều tra đã thân dẫn Cao Mạnh H và xác định cửa hàng đó là của anh Đinh Tuấn Anh (sinh năm 1985 trú tại thôn J, xã J, huyện K, thành phố Hà Nội). Tuấn Anh khai nhận: Quá trình thu mua phế liệu tại cửa hàng trong thời gian từ đầu tháng 03/2020 đến trước ngày 22/3/2020, anh Tuấn Anh không mua bất kỳ số dây đồng của ai với trọng lượng khoảng 200kg, anh Tuấn Anh không quen biết và chưa gặp H bao giờ. Cao Mạnh H cũng khai nhận khi bán đồng cho chủ cửa hàng thu mua phế liệu, do  người này thường xuyên đeo khẩu trang nên H không biết và không nhớ đặc điểm của người này. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện K không có đủ căn cứ để xử lý đối với anh Đinh Tuấn Anh.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là Công ty TNHH một thành viên N do ông Lê Tuấn V làm đại diện theo ủy quyền không yêu cầu bồi thường dân sự nên không xem xét, giải quyết.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Bà Phạm Thị M và Chị Phan Thị  V, không yêu cầu bồi thường dân sự nên không xem xét, giải quyết.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

- Trả lại tài sản cho Công ty TNHH một thành viên N: 01 chiếc balo màu đen;

01 đoạn dây đồng dài 120cm; 09 đoạn dây đồng dài 40cm; 02 vật có ren xoáy ốc; 26,5kg dây đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau và 28kg dây đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau.

- Trả lại tài sản cho bị cáo: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ màu trắng đã qua sử dụng, 01 chiếc đồng hồ bằng kim loại màu vàng, 01 chiếc đồng hồ đã bị vỡ mặt kính, dây bằng cao su đen, 01 ví giả da màu nâu và 02 chiếc nhẫn kim loại màu bạc thu giữ của H, H khai đây là số tài sản do H lao động mà có từ trước không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu và sung vào ngân sách nhà nước số tiền 1.550.000 đồng thu giữ  của H.

- Buộc bị cáo phải truy nộp 23.900.00 đồng là số tiền bị cáo thu lời bất chính  để sung vào ngân sách nhà nước.

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 chiếc kìm cộng lực; 01 chiếc mỏ lết màu bạc; 01 dao dọc giấy; 01 dao gọt hoa quả; 01 đèn pin.

Bị cáo H sau khi nghe quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Bị cáo Cao Mạnh H đã thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại Cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận có tội và thừa nhận hành vi Trộm cắp tài sản vào khoảng thời gian từ đầu tháng 3 năm 2020, giữa tháng 3 năm 2020 và ngày 22/3/2020 tại Trạm biến áp thôn O, xã J, huyện K, thành phố Hà Nội, bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản là 360m cáp dây điện loại cáp 4x70mm và 40m cáp dây điện loại cáp 4x50mm để lấy đồng đem đi bán lấy tiền tiêu sài cho bản thân, toàn bộ số cáp dây điện bên trong là lõi dây đồng bị cáo đã trộm cắp có tổng giá trị là: 144.800.000đ (Một trăm bốn mươi bốn triệu tám   trăm nghìn đồng). Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội V vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Người đại theo ủy quyền của công ty TNHD MTV Chiếu  sáng và thiết bị đô là ông Lê Tuấn V và Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Bà Phạm Thị M và Chị Phan Thị V đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông V, bà M và chị V đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Tại Cơ quan điều tra, Công an huyện K ông Lê Tuấn V, Bà Phạm Thị M và Chị Phan Thị V đã có lời khai và có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa, sự vắng mặt của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo. Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS)   [2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Công an huyện K, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo,  người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Cao Mạnh H: Vào khoảng đầu tháng  03/2020, do thiếu tiền tiêu sài cá nhân nên H đã vào Trạm điện ở thôn O, xã J, huyện K, thành phố Hà Nội mục đích để lấy trộm tài sản. H đã chuẩn bị 01 chiếc kìm cộng lực, 01 mỏ lết, 01 dao dọc giấy, 01 dao gọt hoa quả và 01 đèn pin để phục vụ việc cắt trộm cáp điện lấy dây đồng đi bán. H dùng kìm cắt cáp điện đã chuẩn bị sẵn để cắt nhiều đoạn cáp điện trong trạm điện. Sau khi cắt xong, H dùng dao để tách vỏ dây điện lấy phần lõi đồng bên trong. Sau khi tách được phần lõi đồng, H đã mang số đồng lấy được bán ở nhiều cửa hàng thu mua phế liệu khác nhau trong xã J, huyện K, thành phố Hà Nội. Cụ thể: khoảng đầu tháng 03/2020, H đã bán được khoảng 200kg đồng cho cửa hàng thu mua phế liệu tại thôn J, xã J,   huyện K, thành phố Hà Nội. Khoảng giữa tháng 03/2020, H đã bán 28kg đồng cho cửa hàng thu mua phế liệu của bà Phạm Thị M. Ngày 22/3/2020, H đã bán 26,5kg đồng cho cửa hàng thu mua phế liệu của chị Phan Thị V được 2.650.000 đồng. Số tiền này H đã tiêu sài cá nhân hết 1.100.000 đồng còn lại 1.550.000 đồng sau đó đi về trạm điện O ngủ. Đến khoảng 23h30 ngày 22/3/2020, H dậy và tiếp tục thực hiện hành vi cắt trộm cắp điện. Trên đường H mang số lõi đồng trộm cắp được tại Trạm điện mang đi bán thì H bị Cơ quan công an huyện K kiểm tra, phát hiện và bắt giữ.

[4]. Vật chứng Cơ quan Công an huyện K thu giữ của Cao Mạnh H: 01 chiếc balo màu đen đựng 01 đoạn dây đồng dài 120cm; 09 đoạn dây đồng dài 40cm; 02 vật có ren xoáy ốc; 01 chiếc kìm cộng lực; 01 chiếc mỏ lết màu bạc; 01 dao dọc giấy; 01 dao gọt hoa quả; 01 đèn pin; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, vỏ màu trắng, máy cũ đã qua sử dụng; 01 chiếc đồng hồ bằng kim loại màu vàng;

01 chiếc đồng hồ đã bị vỡ mặt kính, dây bằng cao su đen; 01 ví giả da màu nâu; 02 chiếc nhẫn kim loại màu bạc; và số tiền 1.550.000 đồng.

Vật chứng Cơ quan Công an huyện K thu giữ của chị Phan Thị V  26,5kg  dây đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau. (BL 100).

Vật chứng Cơ quan Công an huyện K thu giữ của bà Phạm Thị M 28kg dây  đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau. (BL 116).

[5]. Tại kết luận định giá tài sản số 44/KL-HĐĐG ngày 22/4/2020 của HĐĐG tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: 360m cáp dây điện, vỏ màu đen, lõi đồng, loại cáp 4x70mm, đã qua sử dụng, có tổng giá trị: 133.200.000 đồng (370.000/mét) (Bằng chữ: Một trăm ba mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng); 40m dây cáp điện vỏ màu đen, lõi đồng, loại cáp 4x50mm, đã qua sử dụng, có tổng giá trị 11.600.000 đồng (290.000/mét) (Bằng chữ: Mười một triệu sáu trăm nghìn đồng) (BL 31).

Chi tiết Điều 173. Tội trộm cắp tài sản  1.  Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm  2.  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 đến  07 năm:

...c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000  đồng...”   [6]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: vào khoảng thời gian từ đầu tháng 3 năm 2020, giữa tháng 3 năm 2020 và ngày  22/3/2020 tại Trạm biến áp thôn O, xã J, huyện K, thành phố Hà Nội, lợi dụng sơ hở của chủ tài sản bị cáo đã có hành vi lén lút, bí mật trộm cắp tài sản là 360m cáp dây điện loại cáp 4x70mm và 40m cáp dây điện loại cáp 4x50mm để lấy đồng đem đi bán lấy tiền tiêu sài cho bản thân, toàn bộ số cáp dây điện bên trong là lõi dây đồng bị cáo đã trộm cắp có tổng giá trị là: 144.800.000đ (Một trăm bốn mươi bốn triệu tám trăm nghìn đồng). Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo Cao Mạnh H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7]. Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Viện kiển sát: Khẳng định nội V bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K, truy tố bị cáo Cao Mạnh H ra trước Tòa về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều  173 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quan điểm của Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật. Mức hình phạt của Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo nhận tội và không có ý kiến bào chữa, tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[8]. Đánh giá tính chất vụ án:  Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực dân sự và nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vì mục đích tư lợi nên bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm minh tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[9]. Về nhân thân bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, nhân thân bị cáo không có tiền án tiền sự. Hội đồng xét xử đánh giá bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình để Cơ quan cảnh sát điều tra, điều tra kết thúc vụ án sớm. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật   hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để đảm bảo tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước và Pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng, bị cáo H phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: phạm tội từ 02 lần trở lên; theo điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[10]. Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo Cao Mạnh H: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[11]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là Công ty TNHH một thành viên  N do ông Lê Tuấn V làm đại diện theo ủy quyền không yêu cầu bồi thường dân sự và đến nay không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Bà Phạm Thị M và Chị Phan Thị V, không yêu cầu bồi thường dân sự và đến nay không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[12]. Về xử lý vật chứng: - Trả lại tài sản cho Công ty TNHH một thành viên N: - 01 đoạn dây đồng dài 120cm; 09 đoạn dây đồng dài 40cm; 02 vật có ren xoáy ốc; 26,5kg dây đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau và 28kg dây đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau;  - Trả lại tài sản cho bị cáo:

01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ màu trắng đã qua sử dụng, 01 chiếc  đồng hồ bằng kim loại màu vàng, 01 chiếc đồng hồ đã bị vỡ mặt kính, dây bằng cao su đen, 01 ví giả da màu nâu và 02 chiếc nhẫn kim loại màu bạc thu giữ của H, H khai đây là số tài sản do H lao động mà có từ trước không liên quan đến hành vi phạm tội; - Tịch thu và sung vào ngân sách nhà nước số tiền 1.550.000 đồng thu giữ của H; - Buộc bị cáo phải truy nộp 23.900.00 đồng là số tiền bị cáo thu lời bất chính để sung vào ngân sách nhà nước; - Tịch thu và tiêu hủy: 01 chiếc balo màu đen; 01 chiếc kìm cộng lực; 01 chiếc mỏ lết màu bạc; 01 dao dọc giấy; 01 dao gọt hoa quả; 01 đèn pin.

[13]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[14]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Cao Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản  1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Cao Mạnh H 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/3/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Cao Mạnh H.

Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét, giải quyết.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Trả lại tài sản cho Công ty TNHH một thành viên N: - 01 đoạn dây đồng dài  120cm; 09 đoạn dây đồng dài 40cm; 02 vật có ren xoáy ốc; 26,5kg dây đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau và 28kg dây đồng, được cắt thành nhiều đoạn, kích cỡ khác nhau.

- Trả lại tài sản cho bị cáo: - 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ màu trắng đã qua sử dụng, 01 chiếc đồng hồ bằng kim loại màu vàng, 01 chiếc đồng hồ đã bị vỡ mặt kính, dây bằng cao su đen, 01 ví giả da màu nâu và 02 chiếc nhẫn kim loại màu bạc.

- Tịch thu và sung vào ngân sách nhà nước số tiền 1.550.000 đồng thu giữ của  H.

- Buộc bị cáo H phải truy nộp 23.900.00 đồng là số tiền bị cáo thu lời bất  chính để sung vào ngân sách nhà nước.

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 chiếc balo màu đen; 01 chiếc kìm cộng lực; 01 chiếc mỏ lết màu bạc; 01 dao dọc giấy; 01 dao gọt hoa quả; 01 đèn pin.

(Số vật chứng, tài sản trên có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện K đang quản lý theo Biên bản bàn giao vật chứng, tài sản lập ngày 14/01/2020 và biên lai thu tiền số AA/2010/1869 ngày 22/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Cao Mạnh H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt bị cáo. Vắng mặt  người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc bản án sơ thẩm được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2  Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều  9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại  Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 83/2020/HS-ST

Số hiệu:83/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;