Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 82/2022/HS-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Sỹ M (Tên gọi khác: Không có), sinh năm: 1974 tại N;

Nơi cư trú: xã K, huyện N, tỉnh N;

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 08/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Ngô Sỹ L, sinh năm 1924 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1935 (đều đã chết).

Bị cáo là con thứ mười hai trong gia đình có 12 anh chị em.

Có vợ là chị Trương Thị Đ sinh năm 1978, có hai con sinh năm 2001 và 2007.

Tiền án:

- Ngày 25/10/1993, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk xử phạt 07 năm tù giam về tội “Cướp tài sản của công dân”.

- Ngày 24/10/2002, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh N xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/4/2021 Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B - Bị cáo có mặt.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1990 – Vắng mặt.

Địa chỉ: 346/7/34, khu phố 1, phường T, thành phố B, Đ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 02/11/2020, Ngô Sỹ M đến tiệm tạp hóa “Phượng Xù” tại số 346/7/34, khu phố 1, phường T, thành phố B của chị Nguyễn Thị T làm chủ để mua thuốc lá. Tại đây, M phát hiện chị Hương có để 01 chiếc điện thoại đi động hiệu Samsung Note 10 trên kệ gỗ trước quầy bán hàng nên lợi dụng lúc chị Hương đang sắp xếp đồ đạc thì M đã lén lấy trộm chiếc điện thoại của chị Hương rồi bỏ đi. Sau đó, M dùng 01 chiếc móc khóa mở nắp chiếc điện thoại trên để tìm cách mở khóa màn hình nhưng không được dẫn đến chiếc điện thoại bị hư nguồn. Khoảng 10 giờ cùng ngày, M đi bộ đến khu vực khu phố 1, phường T thì gặp bạn là Trần Xuân Khương, ngụ tại 123/2, khu phố 1, phường T, thành phố B nên M đã cho Khương chiếc điện thoại trên.

Đến ngày 06/11/2020, Khương đến tiệm tạp hóa của chị H mua đồ thì được chị Hương kể lại việc M lấy trộm điện thoại của chị H nên K xác định chiếc điện thoại mà M cho Khương là của chị H và K nảy sinh ý định cho chị Hương chuộc lại. Thực hiện ý định trên, khoảng 20 giờ ngày 06/11/2020 Khương đến gặp chị H và yêu cầu chị Hương chuộc lại chiếc điện thoại thì chị Hương đồng ý. Khi Khương đem chiếc điện thoại trên đến gặp chị H tại quán cà phê “Quê Hương” tại khu phố 1, phường T thì chị Hương đã báo cho tổ phòng chống tội phạm phường T đến mời Khương về làm việc và lập hồ sơ sự việc chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Ngày 14/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã bắt tạm giam Ngô Sỹ M để điều tra, xử lý.

Vật chứng của vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 10 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị Nguyễn Thị T.

Tại bản kết luận định giá số 530/KL-HĐĐGTS ngày 25/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận: “01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 10 trị giá 14.800.000đ (Mười bốn triệu tám trăm nghìn đồng)”.

Về dân sự: bà Trương Thị Đ là vợ của Ngô Sỹ M đã bồi thường cho chị Nguyễn Thị T 7.800.000đ (Bảy triệu tám trăm nghìn đồng) theo yêu cầu của chị H. Chị H không có yêu cầu gì khác.

Tại Bản cáo trạng số 81/CT-VKSBH ngày 26 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Ngô Sỹ M về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng mô tả. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo không tranh luận, nói lời nói sau cùng là mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Ngô Sỹ M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 2 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Ngô Sỹ M từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa bị cáo cho rằng bị cáo chỉ nhận được cáo trạng và kết luận điều tra, ngoài ra bị cáo không nhận được văn bản nào cả. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ thì thấy các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận vào ngày 02/11/2020, Ngô Sỹ M đã thực hiện hành vi trộm cắp của chị Nguyễn Thị T 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 10 trị giá 14.800.000đ (Mười bốn triệu tám trăm nghìn đồng) tại tiệm tạp hóa “Phượng Xù” ở số 346/7/34, khu phố 1, phường T, thành phố B thì bị bắt giữ để điều tra, xử lý.

[3] Về tội danh:

Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, biên bản ghi hình và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, bị cáo có 2 tiền án, đã tái phạm nay tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo có 02 tiền án, đã tái phạm nay còn tiếp tục phạm tội là tình tiết định khung hình phạt, bị cáo lười lao động mà bất chấp phạm tội, xem thường pháp luật. Do đó, cần phải có mức hình phạt phù hợp cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, để có điều kiện giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung, nhưng cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo khai về phần nhân thân của bị cáo đã được xóa án tích đối với tất cả 03 quyết định bản án của Tòa án và bị cáo đã nộp cho cơ quan điều tra. Quá trình thẩm vấn tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát làm rõ tiền án tiền sự của bị cáo và bị cáo không cung cấp được chứng cứ chứng M về việc đã nộp các quyết định xóa án tích nên không có căn cứ để xem xét cho bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm vào tình tiết nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho bị hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa bị cáo khai có bố có công cách mạng nhưng bị cáo không cung cấp được giấy tờ cho Tòa án.

quyết. quyết.

[7] Về phần dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên không ra xem xét giải

[8] Về vấn đề khác: Vật chứng đã xử lý xong nên không đặt ra xem xét giải [9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[10] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ các Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Ngô Sỹ M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Ngô Sỹ M 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2021.

2. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-ST

Số hiệu:82/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;