Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 82/2022/HS-PT NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2022/TLPT-HS ngày 28 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Tô Hoàng S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2021/HS-ST ngày 18/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Tô Hoàng S, sinh năm: 1990; giới tính: nam; nơi sinh: thành phố R, tỉnh Kiên Giang; Nơi ĐKTT: 200/29, đường Ngô Quyền, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở hiện nay: 165/25/8, đường QT, phường VQ, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch:

Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không ổn định; Trình độ học vấn: 6/12; Cha: Tô Thuận Đường, sinh năm: 1966, nghề nghiệp: làm thuê; Mẹ: Châu Thiện Ngọc D, sinh năm: 1969, nghề nghiệp: làm thuê; Em ruột: Tô Hoàng Nhã Y; Vợ: Võ Trần Thúy V, sinh năm: 1999; Con ruột 04 người, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 25/5/2021 đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Trần Văn Th, Trần Thanh T, Võ Thành Q do không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không có triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1 Tô Hoàng S, Võ Thành Q, Trần Thanh T, Trần Văn T là những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định. Để có tiền tiêu xài đã rủ nhau cùng đi trộm cắp tài sản của người khác ở nhiều nơi trên địa bàn thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Cụ thể, các bị cáo đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản như sau:

1. Đối với Tô Hoàng S Vụ thứ nhất: Vào khoảng 13 giờ ngày 27/01/2021, Tô Hoàng S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Scoopy, màu đen đỏ, biển số 68S1-X.25 mượn của mẹ vợ S là bà Trần Thị Thúy H (bà H không biết S dùng xe đi trộm) chở Trần Thanh T (sinh ngày 01/01/2004) đi trên nhiều tuyến đường thuộc địa bàn thành phố R tìm xe mô tô của người khác để lấy trộm. Khi cả hai đi đến trước nhà số 28, đường Trương Hán Siêu, phường Vĩnh Lạc thì phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đen, biển kiểm soát 68G1-X.18 của chị Nguyễn Thị Thúy đang đậu trước nhà không có người trông coi nên Srủ T lấy trộm. S dừng xe lại, đi bộ tiếp cận xe, còn T ngồi trên xe Scoopy cảnh giới. S đi đến dẫn xe mô tô 68G1-X.18 đi ra đường lộ, S ngồi trên xe vừa trộm được để T điều khiển xe Scoopy đẩy ở phía sau đi đến khu vực cầu Sư Thiện Ân, phường V, sau đó S tự sửa ổ khóa và đem xe cất giấu. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, S gọi điện thoại cho Khải (chưa rõ tên thật, địa chỉ) nhờ Khải cầm xe trên được số tiền 6.000.000đ nhưng S chỉ nhận được 4.100.000đ. S thông báo cho T biết là đã trả xe trộm được cho người bị hại nên không chia tiền cầm xe cho T2.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 13 giờ ngày 09/02/2021, Tô Hoàng S gọi điện thoại di động cho Võ Thành Q kêu Q đến nhà trọ số 388/8/16, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang, thành phố R chở S đi tìm xe mô tô của người khác lấy trộm để bán chia nhau tiền tiêu xài, thì Q đồng ý. Khoảng 15 phút sau Q điều khiển xe mô tô hiệu SYM Attila, màu đỏ, biển số 68P6-X (xe của bà Võ Thị Thu T5 là cô ruột của Quang cho Quang mượn làm phương tiện đi lại hàng ngày, bà Tâm không biết Quang sử dụng đi trộm cắp) đến nhà trọ của S để rước S. Q điều khiển xe mô tô trên chở S đi nhiều tuyến đường trên địa bàn thành phố R tìm xe mô tô để lấy trộm. Khi S và Q đi đến trước cơ sở Lý Khánh, thuộc tổ 5, khu phố 4, đường Võ Văn Kiệt, phường Vĩnh Thông thì cả hai nhìn thấy 01 xe mô tô, hiệu Honda Future FI, màu đen bạc, biển số 68G1-X.49 của anh Nguyễn Văn T3 đang đậu tại đây, xe có khóa cổ nhưng không có người trông coi nên cả hai quyết định lấy trộm xe mô tô trên. Q dừng xe lại bên lề đường gần đó ngồi cảnh giới còn S mình đi bộ đến gần chỗ chiếc xe của anh Tài, quan sát xung quanh không có ai nên lấy 01 cây tua vít mang theo sẵn trong người ra bẻ khóa xe rồi khởi động xe chạy đi, Q cũng điều khiển xe chạy theo S về phòng trọ của S. Tại đây, S tháo biển số xe vừa trộm được ra thay bằng biển số 68B1-X.79 (biển số này do S mua ở cửa hàng phế liệu, S không nhớ ở đâu) để tránh bị phát hiện, còn biển số 68G1-X.49 của xe trộm được S vứt bỏ (S không nhớ đã vứt ở đâu). Sau khi thay biển số xe xong thì S một mình điều khiển xe mô tô vừa trộm được đến gặp Nguyễn Khoa Q nhờ cầm xe giùm thì Q đồng ý (Q không biết đây là xe do S trộm cắp do S nói là xe của gia đình S). Sau đó, Q đem xe trên đến khu vực Bưu điện thành phố R gặp anh Lê Nguyễn Thanh G1 cầm được số tiền 11.000.000đ (anh G1 không biết đây là tài sản trộm cắp). Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Q đến nhà trọ nơi S ở thông báo với S là cầm xe được 10.000.000đ nhưng trừ tiền hoa hồng còn lại 9.000.000đ, S đưa cho Q 500.000 đồng. S chia cho Q 3.800.000đ, số tiền còn lại S tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ ba: Khoảng 10 giờ ngày 21/4/2021, Tô Hoàng S một mình mang theo cây tua vít đi bộ đến chùa Phật Quang, số 83, đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang nhìn thấy xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu bạc đen, biển số 68X1-X.78 của anh Quang Thanh V đang đậu tại bãi giữ xe của chùa. S đi đến dùng cây tua vít phá khóa xe, sau đó khởi động xe chạy đi, còn tua vít thì vứt bỏ (S không nhớ vứt ở đâu). S điều khiển xe trộm được đến nhà của Lương Trung K, ở số 181, đường Lê Phụng Hiểu, phường V nhờ Kiên tìm nơi cầm giùm (Kiên không biết xe do S trộm cắp). Tại đây, để tránh bị phát hiện S đi tìm lấy trộm được biển số xe 68T3-X (do ông Kiều Văn H đứng tên chủ sở hữu) gắn vào xe vừa trộm được (quá trình S thay đổi biển số xe thì Kiên không nhìn thấy), còn biển số 68X1-X.78 của xe trộm được thì S vứt bỏ nhưng không nhớ đã vứt ở đâu. Sau đó, Kiên đem xe trên cầm cho Trương Hoàng H (Huy Cò) được 8.000.000đ (Huy không biết xe là tài sản trộm cắp). Sau đó, Kiên đem tiền về đưa cho S thì S cho Kiên 800.000đ, số tiền còn lại S tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ tư: Khoảng 17 giờ ngày 23/5/2021, S một mình đi bộ đến lô 11 căn 6, hẻm 90, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang phát hiện xe mô tô Honda Wave, màu xanh, biển số 68X1-X của bà Trần Thị Ánh T1 đang đậu trước cửa nhà không có người trông coi nên S tiếp cận xe mô tô trên và dùng tay bứt dây nguồn (dây max) khởi động xe chạy đi gặp Nguyễn Khoa Q nhờ Q tìm nơi tiêu thụ xe trên. Q kêu S tìm biển số xe khác gắn vào xe trộm được để tránh bị phát hiện. S đi bộ vào trong hẻm 165, đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang lấy trộm được 01 biển số xe số 68B1-X của anh Trương Thanh N2 gắn vào xe mô tô vừa trộm được, còn biển số xe 68X1-X S vứt bỏ (S không nhớ ở đâu). Sau khi gắn biển số xong thì Q đem xe mô tô trộm được đi đến nhà Phan Trung V ở số 45, đường Lê Thị Hồng Gấm, phường Vĩnh Thanh cầm được 3.000.000đ nhưng V chỉ đưa cho Q số tiền 2.700.000đ (anh V không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có). Sau đó, S cho Q 200.000đ, số tiền còn lại S tiêu xài cá nhân hết. Hiện tại Q đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra chưa làm việc được.

2. Đối với Võ Thành Q:

Võ Thành Q cùng với Tô Hoàng S thực hiện 01 vụ trộm xe mô tô, hiệu Honda Future FI, màu đen bạc, biển số 68G1-X.49 của anh Nguyễn Văn T3 vào ngày 09/02/2021, tại trước cơ sở Lý Khánh, thuộc tổ 5, khu phố 4, đường Võ Văn Kiệt, phường Vĩnh Thông với giá trị là 23.933.000đ (Hai mươi ba triệu chín trăm ba mươi ba ngàn đồng).

3. Đối với Trần Thanh T:

Ngoài lần cùng với Tô Hoàng S thực hiện 01 vụ trộm xe mô tô, T còn cùng với Trần Văn T thực hiện thêm 02 vụ trộm cắp tài sản là dây điện trên các trụ điện đường, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Do cần tiền tiêu xài nên Trần Văn T rủ Trần Thanh T đi tìm dây điện trên các trụ điện để cắt trộm thì cả hai thống nhất thực hiện. Vào khoảng 13 giờ ngày 31/7/2021, T2 điều khiển xe mô tô, kiểu dáng xe Wave, màu đỏ (T2 không nhớ rõ biển số, xe do T mượn của người khác) chở Trần Văn T đi tìm dây điện mắc trên các trụ điện lấy trộm, cắt lấy lõi đồng để bán. Khi đi thì T và T có chuẩn bị sẵn 01 cây kìm cắt sắt màu xanh. Khi cả hai đến trước khu vực trường tiểu học Nguyễn Huệ, đường Dương Minh Châu, phường Vĩnh Quang thì dừng xe lại, T2 ngồi trên xe cảnh giới còn T xuống xe và trèo lên trụ điện gần đó, dùng cây kìm cắt và lấy dây điện thuộc hệ thống chiếu sáng công cộng thành phố R do Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng thành phố R quản lý. Sau khi cắt lấy được dây điện (Thành và T2 không biết được bao nhiêu mét dây điện) thì cả hai cùng nhau chở đến khu vực đường Võ Trường Toản, phường Vĩnh Quang đốt lấy phần lõi đồng và mang đến vựa phế liệu của anh Thái Thanh M ở hẻm 117, đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang bán khối lượng lõi đồng là 2kg, được số tiền 300.000đ, cả hai chia nhau tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Bằng thủ đoạn và phương thức tương tự, khoảng 01 giờ ngày 01/8/2021, T và Th tiếp tục đến địa chỉ trên lấy trộm dây điện (Th và T cũng không biết được bao nhiêu mét dây điện) và đem bán cho anh Minh khối lượng lõi đồng là 5,8kg, với số tiền 620.000đ, cả hai chia nhau tiền tiêu xài hết (cả hai lần mua tài sản thì anh Minh đều không biết do Tr và T trộm cắp mà có).

Tổng cộng 02 lần trộm là 73,2m dây điện, với tổng giá trị là 5.833.674đ (Năm triệu tám trăm ba mươi ba ngàn sáu trăm bảy mươi bốn đồng).

4. Đối với Trần Văn T:

Ngoài lần cùng với Trần Thanh Tr thực hiện 02 vụ trộm dây điện thuộc hệ thống chiếu sáng công cộng thành phố R nêu trên, T còn thực hiện thêm nhiều vụ trộm dây điện thuộc hệ thống chiếu sáng công cộng thành phố R do Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng thành phố R quản lý và tài sản khác, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 23 giờ ngày 16/8/2021, T mang theo kìm chuyên dụng cắt dây điện cùng với Trần Thanh H (sinh ngày 01/6/2006) đi bộ đến trước nhà số A15, đường Lý Thái Tổ, phường Vĩnh Quang, quan sát không có người nên T trèo lên trụ điện dùng kìm cắt được khoảng 60m dây điện. Tiếp theo, cả hai đi đến khu vực cổng trường Trung học phổ thông Nguyễn Trung Trực cắt trộm dây điện nối từ trụ điện vào trường được khoảng 50m. Sau khi lấy trộm được dây điện, cả hai mang về phòng trọ của Hiếu ở số 388/8/22, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang cất giấu. Tiếp đến, T và H đi đến khu vực 16ha, thuộc phường Vĩnh Thanh Vân, cắt trộm dây điện từ trụ điện trước nhà số 7 đường Đinh Liệt đến nhà số 6 – 8 đường Nguyễn Thiếp, phường Vĩnh Thanh Vân được khoảng 60m. Cả hai tiếp tục đi đến đường Lê Hoàn cắt dây điện từ trụ điện trước nhà số 2 đến nhà số 18 được khoảng 80m. Sau khi đã lấy trộm được số dây điện nói trên cả hai mang về phòng trọ của Hiếu cất giấu. Đến sáng ngày hôm sau, T và H mang toàn bộ số dây điện trộm được bán cho người tên Heo (chưa xác định được tên, địa chỉ) với số tiền 560.000đ, cả hai chia nhau tiêu xài hết.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 9.424.000đ (Chín triệu bốn trăm hai mươi bốn ngàn đồng).

Vụ thứ hai: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 19/8/2021, T mang theo cây kéo đi đến trước số 39, Quang Trung, phường Vĩnh Quang thì nhìn thấy xe ô tô tải, màu trắng, biển kiểm soát 68C1-X của anh Thái Trường M đang đậu không có người trông coi nên T đi đến gần, dùng kéo cắt lấy trộm bình ắc quy nhãn hiệu Solite, màu đen gắn trên xe đem cất giấu vào bụi cỏ ven đường gần đó, còn cây kéo T vứt bỏ ở đâu không rõ. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày, T tiếp tục mang theo kìm chuyên dụng cắt dây điện đi tìm tài sản để lấy trộm. Khi đến trước nhà số 16/7, đường Dương Diện Nghệ, phường Vĩnh Quang thì phát hiện xe mô tô hiệu YMH Max, màu xanh, biển số 68M4-X của chị Thái Thị Thùy T4 đang đậu trong sân nhà không có người trông coi nên T dùng kìm cắt khoen cửa rào đi vào bên trong và lấy trộm xe mô tô trên đem về phòng trọ của H cất giấu. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, T đi tìm nơi tiêu thụ số tài sản trên thì bị Công an phường Vĩnh Quang phát hiện, mời về trụ sở làm việc.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm ngàn đồng).

Vụ thứ ba: Khoảng 23 giờ ngày 20/8/2021, T và H tiếp tục mang theo kìm và đi bộ đến khu vực 16ha, thuộc phường Vĩnh Thanh Vân tìm nơi vắng người cắt trộm dây điện. Khi cả hai đi đến đường Hoàng Ngọc Phách, phường Vĩnh Thanh Vân thì T trèo lên trụ điện số 7/3 và 7/4 thì H phát hiện có ánh đèn xe nên kêu T trốn. Sau đó, T kêu H đi về trước còn T tiếp tục dùng kìm cắt trộm được 40m dây điện. Sau đó, T tiếp tục leo lên trụ điện số 9/1 và trụ điện số 9/2, đường Trần Hưng Đạo, phường Vĩnh Thanh Vân dùng kìm cắt trộm được khoảng 40m. Sau đó, T mang số dây điện trộm được đem đến khu vực vắng người thuộc khu đô thị Tây Bắc, phường Vĩnh Thanh đốt lấy phần lõi đồng và bán cho một người thu mua phế liệu (chưa xác định được tên, địa chỉ) số tiền 300.000đ, T mang tiền về phòng trọ của H và cùng nhau tiêu xài hết.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 4.304.000đ (Bốn triệu ba trăm lẻ bốn ngàn đồng).

Vụ thứ tư: Khoảng 23 giờ ngày 25/8/2021, T một mình mang theo cây kìm đi bộ trên nhiều tuyến đường thuộc phường Vĩnh Thanh Vân để tìm cắt trộm dây điện. Khi đến trụ điện số 3/1 và 3/2, đường Nguyễn Phúc Chu, phường Vĩnh Thanh Vân, T trèo lên trụ điện cắt trộm được khoảng 40m. Đến sáng ngày hôm sau, T mang số dây điện trên bán cho Heo được 200.000đ. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 2.152.000đ (Hai triệu một trăm năm mươi hai ngàn đồng).

Vụ thứ năm: Khoảng 23 giờ ngày 27/8/2021, T mang theo kìm và đi bộ đến tuyến đường Dương Minh Châu, phường Vĩnh Quang để cắt trộm dây điện. Khi đến cầu sắt nối đường Quang Trung với đường Dương Minh Châu, T trèo lên trụ điện cắt trộm nhiều đoạn dây điện trên tuyến đường Dương Minh Châu được khoảng 400m. Sau đó T mang số dây điện đã lấy trộm được về phòng trọ của Hiếu cất giấu. T tiếp tục mang theo kìm và đi bộ đến khu vực đường Lê Thị Hồng Gấm, phường Vĩnh Thanh cắt trộm dây điện từ trụ điện trước nhà số 54 đến nhà số 56 được khoảng 40m. Đến sáng hôm sau, T đem toàn bộ số dây điện trộm được bán cho Heo nhưng không nhớ bao nhiêu tiền.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 30.368.000đ (Ba mươi triệu ba trăm sáu mươi tám ngàn đồng).

Vụ thứ sáu: Khoảng 23 giờ ngày 28/8/2021, T mang theo kìm và cắt dây điện từ trụ điện trước nhà số 7 đến nhà số 13, đường Trần Thủ Độ, phường Vĩnh Thanh Vân và trụ điện trước nhà số 19, đường Lý Nhân Tông, phường Vĩnh Thanh Vân được hai đoạn dây điện với tổng chiều dài khoảng 80m. Sau đó, T mang toàn bộ số dây điện trên bán cho Heo được 300.000đ.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 4.304.000đ (Bốn triệu ba trăm lẻ bốn ngàn đồng).

Vụ thứ bảy: Khoảng 23 giờ ngày 03/9/2021, T mang theo kìm và cắt dây điện từ trụ điện trước nhà số 223, đường Nguyễn Hùng S, phường Vĩnh Thanh Vân đến trụ điện trước nhà số 239, đường Nguyễn Hùng S, phường Vĩnh Thanh Vân được khoảng 70m. Toàn bộ số dây điện lấy trộm được T bán cho Heo được 200.000đ.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 3.766.000đ (Ba triệu bảy trăm sáu mươi sáu ngàn đồng).

Vụ thứ tám: Khoảng 23 giờ ngày 04/9/2021, T tiếp tục mang theo kìm và cắt dây điện từ trụ điện số 4/5 đến trụ điện số 4/9 đường Nguyễn Hùng S, phường Vĩnh Thanh Vân được khoảng 100m. Sau đó, T mang số dây điện đã trộm được bán cho Heo nhưng không nhớ rõ được bao nhiêu tiền.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 5.380.000đ (Năm triệu ba trăm tám mươi ngàn đồng).

Vụ thứ chín: Khoảng 23 giờ ngày 06/9/2021, T mang theo kìm và cắt trộm dây điện từ trụ điện trước nhà số 182 đến nhà số 196, thuộc đường Ngô Quyền, phường V được khoảng 160m. Thành mang số dây điện đã lấy trộm được bán cho Heo được 500.000đ.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 8.608.000đ (Tám triệu sáu trăm lẻ tám ngàn đồng).

Vụ thứ mười: Khoảng 20 giờ ngày 09/9/2021, T mang theo kìm và tiếp tục cắt trộm dây điện từ trụ điện trước nhà số 34 đến nhà số 52, thuộc đường Ngô Quyền, phường V được khoảng 50m. Sau khi lấy trộm được số dây điện trên, T mang về phòng trọ của H cất giấu thì bị lực lượng Công an phát hiện.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 2.690.000đ (Hai triệu sáu trăm chín mươi ngàn đồng).

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:

- Thu giữ trong vụ trộm ngày 27/01/2021 trước nhà số 28, đường Trương Hán Siêu, phường Vĩnh Lạc: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Scoopy, màu đen đỏ, số máy JFM31E2639458, số khung 3123KK644569, biển số 68S1- X.25, đã qua sử dụng do bà Trần Thị Thúy H tự nguyện giao nộp (trong vụ trộm vào ngày 27/01/2021 trước nhà số 28, đường Trương Hán Siêu, phường Vĩnh Lạc).

- Thu giữ trong vụ trộm ngày 09/02/2021 trước cơ sở Lý Khánh, thuộc tổ 5, khu phố 4, đường Võ Văn Kiệt, phường Vĩnh Thông, gồm:

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Future FI, màu bạc đen, số máy JC76E040X7, số khung RLHJC7637JZ071596, gắn biển số 68B1-X.79, đã qua sử dụng, do Lê Nguyễn Thanh G1 tự nguyện giao nộp;

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu SYM ATTILA, màu đỏ, số máy VMVTBAD050819, số khung RLGKA12GDAD050819, gắn biển số 68P6-X, đã qua sử dụng.

- Thu giữ trong vụ trộm ngày 21/4/2021 tại chùa Phật Quang, số 83, đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu bạc đen, số máy JF27E0319646, số khung 180XAY276895, gắn biển số 68T3-X, đã qua sử dụng, do Lương Trung K tự nguyện giao nộp (bút lục số 265).

- Thu giữ trong vụ trộm ngày 23/5/2021 tại địa chỉ lô 11 căn 6, hẻm 90, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Vĩnh Quang: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, số máy 0073588, số khung 0073588, gắn biển số 68B1- X, đã qua sử dụng do Phan Trung V tự nguyện giao nộp (bút lục số 296).

- Thu giữ trong 11 vụ trộm dây điện; 01 vụ trộm xe mô tô hiệu YMH Max, màu xanh và bình ắc quy từ ngày 31/7/2021 đến ngày 09/9/2021, gồm:

02 (hai) đoạn dây làm bằng kim loại màu vàng (lõi đồng của dây điện), mỗi đoạn có chiều dài 8,8m; 02 (hai) đoạn dây làm bằng kim loại màu vàng (lõi đồng của dây điện), mỗi đoạn có chiều dài 4,4m; 02 (hai) đoạn dây làm bằng kim loại màu vàng (lõi đồng của dây điện), mỗi đoạn có chiều dài 1,6m; 02 (hai) đoạn dây làm bằng kim loại màu vàng (lõi đồng của dây điện), mỗi đoạn có chiều dài 7,6m; 02 (hai) đoạn dây làm bằng kim loại màu vàng (lõi đồng của dây điện), mỗi đoạn có chiều dài 14,2m. Tổng chiều dài của những đoạn dây kim loại màu vàng trên là 73,2m (tất cả vật chứng trên do anh Thái Thanh M tự nguyện giao nộp.

+ 01 (một) cây kìm chuyên dụng cắt dây điện, màu đen, đã qua sử dụng;

+ 18m (mười tám mét) dây điện không rõ nhãn hiệu, màu đen, đã qua sử dụng;

+ 23,6 m (hai mươi ba phẩy sáu mét) dây điện không rõ nhãn hiệu, màu trắng, đã qua sử dụng;

+ 8,4m (tám phẩy bốn mét) dây điện không rõ nhãn hiệu, màu trắng, đã qua sử dụng.

Tổng chiều dài của những đoạn dây điện là 50m (năm mươi mét).

- 01 (một) xe mô tô hiệu YMH Max, màu xanh, số máy 150FMG041367, số khung G1NG81023367, biển số 68M4-X, không có bửng xe, không có đầu xe, đã qua sử dụng;

- 01 (một) bình ắc quy nhãn hiệu Solite, màu đen có dòng chữ Calcium premium battery made in korea, đã qua sử dụng.

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho người bị hại Nguyễn Văn T3: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Future FI, màu đen bạc, số máy JC76E040X7, số khung RLHJC7637JZ071596, không gắn biển số, đã qua sử dụng;

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho người bị hại Quang Thanh V: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu bạc đen, số máy JF27E0319646, số khung 180XAY276895, không gắn biển số, đã qua sử dụng;

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho người bị hại Trần Thị Ánh T1: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, số máy 0073588, số khung 0073588, không gắn biển số, đã qua sử dụng;

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho người bị hại Thái Trường M: 01 (một) bình ắc quy nhãn hiệu Solite, màu đen có dòng chữ Calcium premium battery made in korea, đã qua sử dụng;

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho người bị hại Thái Thị Thùy T4: 01 (một) xe mô tô hiệu YMH Max, màu S: xanh, số máy 150FMG041367, số khung G1NG81023367, biển số 68M4-X, không có bửng xe, không có đầu xe, đã qua sử dụng;

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho bà Trần Thị Thúy H: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Scoopy, màu đen đỏ, số máy JM31E2639458, số khung 3123KK644569, biển số 68S1- X.25, đã qua sử dụng, do khi bị can S sử dụng đi trộm cắp bà H không biết;

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho bà Võ Thị Thu T5: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu SYM Attila, màu đỏ, số máy VMVTBAD050819, số khung RLGKA12GDAD050819, biển số 68P6 – X, đã qua sử dụng, do khi bị can Quang sử dụng đi trộm cắp bà Tâm không biết;

- Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh Trương Thanh N2: 01 (một) biển số xe 68B1-X, đã qua sử dụng.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 67/KL-HĐĐGTS, ngày 28/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố R kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đen, số máy JF58E0804201, số khung RLHJF5809EY804147, biển số 68G1-X.18, sản xuất năm 2015, nước sản xuất Việt Nam, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 27/01/2021 có giá trị là 14.400.000đ.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 37/KL-HĐĐGTS, ngày 26/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố R kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Future FI, màu bạc đen, số máy JC76E040X7, số khung RLHJC7637JZ071596, không gắn biển số, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 09/02/2021 có giá trị là 23.933.000đ.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 91/KL-HĐĐGTS, ngày 07/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố R kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu bạc đen, số máy JF27E0319646, số khung 180XAY276895, không gắn biển số, đã qua sử dụng, sản xuất năm 2010, nước sản xuất Việt Nam, tại thời điểm ngày 21/4/2021 có giá trị là 10.333.000đ.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 91/KL-HĐĐGTS, ngày 07/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố R kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, số máy 0073588, số khung 0073588, không gắn biển số, đã qua sử dụng, sản xuất năm 1998, nước sản xuất Thái Lan, tại thời điểm ngày 23/5/2021 có giá trị là 12.500.000đ.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 115/KL-HĐĐGTS, ngày 06/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố R kết luận:

73,2m (bảy mươi ba phẩy hai mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại Cáp Cv 2x11mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 01/8/2021 có giá trị là 5.833.674đ.

* Tại kết luận số 121/KL-HĐĐGTS ngày 14/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố R kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu YMH Max, màu S: xanh, số máy 150FMG041367, số khung G1NG81023367, biển số 68M4-X, không có bửng xe, không có đầu xe, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 19/8/2021 có giá trị là 1.000.000đ (một triệu đồng); 01 (một) bình ắc quy nhãn hiệu Solite, màu đen có dòng chữ Calcium premium battery made in korea, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 19/8/2021 có giá trị là 400.000đ. Tổng cộng: 1.400.000đ (một triệu bốn trăm ngàn đồng).

* Tại bản kết luận số 139/KL-HĐĐGTS ngày 12/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố R kết luận:

- 110m (một trăm mười mét) mét dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp 30/10 mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 17/8/2021 có giá trị là 1.892.000đ (một triệu tám trăm chín mươi hai ngàn đồng); 140m (Một trăm bốn mươi mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp CV 22mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 17/8/2021 có giá trị là 7.532.000đ (Bảy triệu năm trăm ba mươi hai ngàn đồng).

- 80m (tám mươi mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp CV 22mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 21/8/2021 có giá trị là 4.304.000đ (Bốn triệu ba trăm lẻ bốn ngàn đồng).

- 40m (bốn mươi mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp CV 22mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 26/8/2021 có giá trị là 2.152.000đ (Hai triệu một trăm năm mươi hai ngàn đồng).

- 400m (bốn trăm mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp CV 2 x 11 mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 28/8/2021 có giá trị là 29.320.000đ (Hai mươi chín triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng); 40m (bốn mươi mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp CV 11mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 28/8/2021 có giá trị là 1.048.000đ (Một triệu không trăm bốn mươi tám ngàn đồng).

- 80m (tám mươi mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp CV 22mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 29/8/2021 có giá trị là 4.304.000đ (Bốn triệu ba trăm lẻ bốn ngàn đồng).

- 70m (bảy mươi mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp CV 22mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 04/9/2021 có giá trị là 3.766.000đ (Ba triệu bảy trăm sáu mươi sáu ngàn đồng).

- 100m (một trăm mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp CV 22mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 05/9/2021 có giá trị là 5.380.000đ (Năm triệu ba trăm tám mươi ngàn đồng).

- 160m (một trăm sáu mươi mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại cáp CV 22mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 07/9/2021 có giá trị là 8.608.000đ (Tám triệu sáu trăm lẻ tám ngàn đồng).

- 50m (năm mươi mét) dây điện nhãn hiệu CADIVI, loại Cáp CV 22mm2, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 09/9/2021 có giá trị là 2.690.000đ (Hai triệu sáu trăm chín mươi ngàn đồng).

Tổng cộng: 70.996.000đ (Bảy mươi triệu chín trăm chín mươi sáu ngàn đồng) * Tại bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 284/DTT, ngày 28/6/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang kết luận: Thời điểm tháng 01/2021, Trần Thanh T2 có độ tuổi là: Từ 16 năm 3 tháng đến 16 năm 9 tháng.

Tổng cộng, S thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản, với tổng giá trị là 61.166.000đ (Sáu mươi mốt triệu một trăm sáu mươi sáu ngàn đồng); Quang thực hiện 01 vụ trộm với giá trị là 23.933.000đ (Hai mươi ba triệu chín trăm ba mươi ba ngàn đồng); T2 thực hiện 03 vụ trộm, với tổng giá trị là 20.233.674đ (Hai mươi triệu hai trăm ba mươi ba ngàn sáu trăm bảy mươi bốn đồng); Thành thực hiện 12 vụ trộm với tổng giá trị tài sản là 78.229.674đ (Bảy mươi tám triệu hai trăm hai mươi chín ngàn sáu trăm bảy mươi bốn đồng), trong đó số vụ trộm cắp tài sản có giá trị trên 2.000.000đ là 10 vụ.

* Về trách nhiệm dân sự:

+ Người bị hại Nguyễn Thị Thúy yêu cầu bị cáo S bồi thường thiệt hại với số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng), hiện tại bị cáo chưa bồi thường.

+ Đại diện theo ủy quyền của Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng thành phố R là anh Lương Bùi T2 Trí từ chối nhận lại số dây điện bị các bị cáo lấy trộm và yêu cầu bị cáo Thành bồi thường thiệt hại tương đương với giá trị số dây điện mà bị cáo đã lấy trộm theo quy định của pháp luật, hiện tại bị cáo chưa bồi thường.

+ Anh Lê Nguyễn Thanh G1 yêu cầu bị cáo S bồi thường số tiền 11.000.000đ mà anh đã bỏ ra để nhận cầm xe mô tô, hiệu Honda Future FI, màu đen bạc, biển số 68G1-X.49 của anh Nguyễn Văn T3 do bị cáo S, bị cáo Quang trộm cắp, hện tại bị cáo chưa bồi thường.

+ Anh Trương Hoàng H yêu cầu bị cáo S bồi thường số tiền 8.000.000đ mà anh đã bỏ ra để nhận cầm xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu bạc đen, gắn biển số 68T3-X của anh Quang Thanh V do bị cáo S trộm cắp, hiện tại bị cáo chưa bồi thường.

+ Đối với anh Phan Trung V đã bỏ ra số tiền 3.000.000đ để nhận cầm xe mô tô Honda Wave, màu xanh, biển số 68X1-X của bà Trần Thị Ánh T1 do bị cáo S lấy trộm, anh V không yêu cầu bị cáo bồi thường hay yêu cầu gì khác.

+ Đối với anh Thái Thanh M đã bỏ ra số tiền 920.000đ mua dây điện do bị can T2 và S lấy trộm, anh Minh không yêu cầu các bị cáo bồi thường và không yêu cầu gì khác.

+ Đối với bị hại Nguyễn Văn T3, Quang Thanh V, Trần Thị Ánh T1, Thái Trường M, Thái Thị Thùy T4 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị Thúy H, Võ Thị Thu T5, Trương Thanh N2, Kiều Văn H đã nhận lại những tài sản do các bị cáo lấy trộm và sử dụng trái phép, không yêu cầu các bị cáo bồi thường hay yêu cầu gì khác.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2022/HS-ST ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

- Tuyên bố bị cáo Tô Hoàng S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, o khoản 1 Điều 52 và Điều 38 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Tô Hoàng S 04 (năm) 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giam 25/5/2021.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên xử các bị cáo Trần Thanh Tr 09 tháng tù, Võ Thành Q 09 tháng tù và Trần Văn T 06 năm tù; tuyên về trách nhiệm dân sự, biện pháp tư pháp, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 24/01/2022, bị cáo Tô Hoàng S có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Tô Hoàng S giữ nguyên kháng cáo xin giảm hình phạt và cho biết: sau khi có bản án sơ thẩm đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Th 20.000.000đ đúng như yêu cầu của bị hại Th đưa ra và đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R 2.500.000đ thu lợi bất chính mà bản án sơ thẩm buộc bị cáo giao nộp.

- Bị hại Nguyễn Thị Th có ý kiến thừa nhận sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo S đã bồi thường 20.000.000đ như bản án sơ thẩm tuyên, yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo S.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang có ý kiến: Do ở cấp phúc thẩm bị cáo S có tình tiết giảm nhẹ mới là tự nguyện bồi thường, khắc phục thiệt hại cho bị hại và bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo S có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo S, sửa bản án sơ thẩm; áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g, o khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo S từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo Tô Hoàng S về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quyết định của bản án sơ thẩm:

Do cần tiền tiêu xài, Tô Hoàng S đã 4 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, trong đó có hai lần S thực hiện một mình, một lần thực hiện cùng với Trần Thanh Tr là người chưa thành niên (sinh ngày 01/01/2004) và một lần thực hiện cùng với Võ Thành Q. Mỗi lần chiếm đoạt tài sản đều có giá trị trên 2.000.000đ và tổng cộng giá trị tài sản của 4 lần chiếm đoạt là 61.166.000đ. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định.

[3] Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo S:

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Tô Hoàng S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác, tác động xấu đến an ninh, trật tự ở địa phương. Cụ thể, bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác mà giá trị tài sản mỗi lần chiếm đoạt đều đủ định lượng cấu thành tội phạm, trong đó có một lần lôi kéo Trần Thanh Tr là người chưa thành niên (sinh ngày 01/01/2004) cùng thực hiện và tổng cộng giá trị tài sản của 4 lần chiếm đoạt là 61.166.000đ. Từ đó cho thấy, cấp sơ thẩm áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 4 năm 6 tháng tù là có cơ sở, đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội và vai trò của bị cáo trong vụ án, đã áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng, bị áp dụng ở thời điểm xét xử sơ thẩm.

Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại Nguyễn Thị Th 20.000.000đ và nộp tại Chi cục thi hành án 2.500.000đ thu lợi bất chính, là đã thực hiện xong phần lớn trách nhiệm bồi thường, khoắc phục thiệt hại mà bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại Nguyễn Thị Th có ý kiến đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà khi xét xử sơ thẩm bị cáo chưa được hưởng, cần áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ này khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Từ đó, có cơ sở để chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Việc sửa án sơ thẩm là do bị cáo có thêm hai tình tiết giảm nhẹ mới (tự nguyện bồi thường thiệt hại sau khi cấp sơ thẩm đã xét xử; tại phiên tòa phúc thẩm bị hại có ý kiến yêu cầu giảm hình phạt cho bị cáo), chứ cấp sơ thẩm không có lỗi.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Hoàng S, sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2022/HS-ST ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố R tỉnh Kiên Giang.

2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Tô Hoàng S 03 (Ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam (ngày 25/5/2021).

3. Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Tô Hoàng S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm số: 37/2022/HS-ST ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-PT

Số hiệu:82/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;