Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 82/2022/HS-PT NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2022/TLPT-HS ngày 11 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Hồ Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2021/HS-ST ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Long An.

Bị cáo kháng cáo: Hồ Văn T, sinh năm 1976 tại tỉnh Long An. Nơi cư trú: Khu phố 3, thị trấn B, huyện M, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn T1, sinh năm 1940 (đã chết) và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1944 (đã chết). Bị cáo có vợ tên Võ Thị T2, sinh năm 1982; bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2002 và nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang tại ngoại, vắng mặt.

Ngoài ra, còn có 01 bị cáo khác là Nguyễn Văn B1 không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên không triệu tập.

Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo hoặc không có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị không triệu tập:

- Bị hại:

1. Ông Phạm Văn H, sinh năm 1979; Địa chỉ: Khu phố 3, thị trấn B, huyện M, tỉnh Long An.

2. Ông Nguyễn Công B2, sinh năm 1965; Địa chỉ: ấp C, xã P, huyện H1, tỉnh Long An.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn D1, sinh năm 1986; Địa chỉ: Khu phố 2, thị trấn B, huyện M, tỉnh Long An.

2. Bà Võ Thị T2, sinh năm 1982; Địa chỉ: Khu phố 3, thị trấn B, huyện M, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Hồ Văn T và Nguyễn Văn B1 là hàng xóm với nhau, thường cùng nhau sử dụng bình ắc quy và bộ kích điện tự chế (là tài sản của bị cáo T) để đi xiệc điện đánh bắt cá trên kênh, ruộng. Khi đi xiệc cá, hai bị cáo phát hiện đầu máy dầu có gắn dàn sắt xi dùng để bơm nước ruộng của người dân ở cặp bờ kênh không người trông coi, quản lý, hai bị cáo đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản này để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân và đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất, ngày 20-7-2021, khi đi xiệc cá trên ruộng ở khu vực kênh 500 (Khu phố 3, thị trấn B, huyện M), hai bị cáo thấy 01 đầu máy dầu SS60 gắn dàn sắt xi của ông Phạm Văn H đang đặt bơm nước ruộng cặp bờ kênh không có người trông coi, quản lý, hai bị cáo đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản này để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, cả hai thống nhất ngày hôm sau sẽ lấy trộm đầu máy dầu và dàn sắt xi trên.

Khoảng 11 giờ ngày 21-7-2021, bị cáo T điều khiển vỏ nhựa composite gắn đầu máy dầu SSA50 (là tài sản của bị cáo T) chở bị cáo B1 đi đến kênh 500 và đậu vỏ nhựa ở bờ kênh, cách chỗ đặt đầu máy dầu SS60 của ông H khoảng 300 mét, hai bị cáo lên bờ đi xiệc cá ở trên ruộng. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, hai bị cáo đi ra chỗ đậu vỏ nhựa và bơi vỏ nhựa đến vị trí đặt đầu máy dầu của ông H, hai bị cáo lấy 02 chiếc chìa khóa có sẵn trên vỏ nhựa, bị cáo B1 cầm chiếc chìa khóa 02 đầu 17-19 lên bờ tháo ốc nền để lấy đầu máy dầu ra khỏi dàn sắt xi, bị cáo T cầm chìa khóa 02 đầu 17 lội xuống kênh để tháo ốc khóa gắn đầu bò, chân vịt ra khỏi dàn sắt xi và bỏ lại đầu bò, chân vịt xuống nước. Sau khi tháo các ốc khóa xong, hai bị cáo cùng nhau khiêng đầu máy dầu, dàn sắt xi cùng tay quay máy dầu và sợi dây sên máy dầu xuống vỏ nhựa và bị cáo T điều khiển vỏ nhựa chở theo bị cáo B1 cùng các tài sản vừa trộm cắp được chạy về hướng nhà của bị cáo T. Khi chạy đến gần ruộng của ông Nguyễn D1 gần nhà của bị cáo T, lo sợ sẽ bị người khác phát hiện nên hai bị cáo đậu vỏ nhựa tại bờ ruộng của ông D1, hai bị cáo khiêng đầu máy dầu và dàn sắt xi trộm được để lên bờ ruộng, bị cáo T điều khiển vỏ nhựa chạy về bến sông của nhà bị cáo T đậu, bị cáo B1 vác dàn sắt xi trộm được đi bộ trên bờ ruộng đi về nhà của bị cáo T và cùng bị cáo T đem đi cất giấu vào nhà kho của bị cáo T. Sau đó, hai bị cáo cùng đi bộ ra nơi để đầu máy dầu trộm được, khi đi hai bị cáo thấy tại ruộng của ông D1 có 01 chiếc xuồng nhựa mà ông D1 thường để trên mương nước ruộng, hai bị cáo đã lấy chiếc xuồng nhựa này đẩy đến chỗ để đầu máy dầu, hai bị cáo khiêng đầu máy dầu trộm được để xuống xuồng nhựa và đẩy về nhà của bị cáo T. Khi gần đến nhà của bị cáo T, hai bị cáo cùng nhau khiêng đầu máy dầu trộm được đem đi cất giấu vào nhà kho của bị cáo T cùng chỗ để dàn sắt xi trộm được. Sau khi cất giấu tài sản trộm được xong thì hai bị cáo đẩy xuồng nhựa của ông D1 trả về vị trí ban đầu và hai bị cáo đi về nhà của mình.

Vụ thứ hai: Khoảng 14 giờ ngày 22-7-2021, bị cáo T tiếp tục điều khiển vỏ nhựa composite gắn đầu máy dầu hiệu SSA50 chở bị cáo B1 đi xiệc cá ở khu vực giáp ranh với huyện H1, tỉnh Long An. Khi đến kênh N, hai bị cáo phát hiện có 01 đầu máy dầu hiệu NS70 gắn dàn sắt xi của ông Nguyễn Công B2 đang đặt bơm nước ruộng ở bờ kênh N (thuộc ấp Đ, xã P, huyện H1) không có người trông coi, quản lý. Do thấy thời gian còn sớm không thuận lợi cho việc lấy trộm nên hai bị cáo T1 nhất chạy vỏ nhựa đến nhà của ông Phạm Văn T3 (ấp C, xã P, huyện H1) để nhậu. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi nhậu xong, bị cáo T điều khiển vỏ nhựa chở bị cáo B1 đi từ nhà ông T3 ngược về kênh N đến vị trí đặt đầu máy dầu NS70 của ông B2, bị cáo T đậu vỏ nhựa gần bờ chỗ đặt đầu máy dầu, bị cáo T lấy trên vỏ nhựa 01 chiếc chìa khóa loại 02 đầu 17-19 đưa cho bị cáo B1 để bị cáo B1 lên bờ tháo ốc nền lấy đầu máy dầu ra khỏi dàn sắt xi, còn bị cáo T cầm chìa khóa 02 đầu 17 lội xuống kênh tháo ốc khóa gắn đầu bò, chân vịt ra khỏi dàn sắt xi và bỏ lại đầu bò, chân vịt xuống nước. Sau khi tháo các ốc khóa xong, hai bị cáo cùng nhau khiêng đầu máy dầu và dàn sắt xi để lên vỏ nhựa. Sau đó bị cáo T điều khiển vỏ nhựa chở theo bị cáo B1 cùng các tài sản vừa trộm được chạy về bến sông nhà của bị cáo T. Lúc này khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, khi vỏ nhựa vừa về đậu ở bến sông nhà bị cáo T, hai bị cáo chưa kịp khiêng đầu máy dầu NS70 và dàn sắt xi mới trộm được đem đi cất giấu thì bị Công an huyện M đến kiểm tra, phát hiện và tạm giữ toàn bộ tang vật và phương tiện liên quan đến 02 vụ trộm cắp tài sản trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2021/HS-ST ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Long An đã xử:

Tuyên bố bị cáo Hồ Văn T và Nguyễn Văn B1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Văn T 09 (Chín) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B1 09 (chín) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo đối với những người tham gia tố tụng.

Ngày 24/11/2021, bị cáo Hồ Văn T kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm;

Tại đơn kháng cáo ghi ngày 24/11/2021 bị cáo Hồ Văn T trình bày là do hoàn cảnh gia đình của bị cáo rất khó khăn, gia Đ bị cáo có bà nội là Mẹ Việt Nam Anh Hùng nhưng cấp sơ thẩm chưa xem xét tình tiết này đối với bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo để có điều kiện lo cho gia Đ.

Kiểm sát viên - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An trình bày quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Bị cáo Hồ Văn T kháng cáo trong thời hạn luật quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với bị cáo Hồ Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử vẫn xét xử vụ án là có căn cứ.

- Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo Hồ Văn T tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, nên cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo T về tội danh và điều luật trên là đúng, không oan. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo T có 01 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo T thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; tài sản hai bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, bị cáo là lao động nghèo, trình độ văn hóa còn hạn chế, là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo. Xét thấy: bị cáo kháng cáo bổ sung giấy xác nhận gia đình bị cáo có ông Hồ Văn P1 là liệt sĩ, và ông Hồ Văn M1 có công với Cách Mạng được nhà nước cấp Bằng khen Tổ quốc ghi công, nhưng bị cáo không cung cấp xác nhận mối quan hệ giữa bị cáo với những người này, nên không có căn cứ để xem xét cho bị cáo. Đối với bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 02 lần trong 02 ngày liên tiếp, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự, nên bị cáo không đủ điều kiện để hưởng án treo theo quy định Điều 65 Bộ luật Hình sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Hồ Văn T, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2021/HS-ST ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện M về hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Hồ Văn T kháng cáo trong thời hạn quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Bị cáo Hồ Văn T được Tòa án triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Xét thấy, bị cáo vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm không vì lý do bất khả kháng hay do trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Lời khai nhận của bị cáo Hồ Văn T tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 18 giờ ngày 21/7/2021, bị cáo Hồ Văn T và bị cáo Nguyễn Văn B1 đã lợi dụng việc ông Phạm Văn H đặt máy bơm nước ở bờ ruộng vắng vẻ, không ai quản lý, hai bị cáo đã lén lút cùng nhau thực hiện hành vi trộm 01 đầu máy dầu SS60CG, 01 dàn sắt xi, 01 cái tay quay máy dầu và 01 sợi dây sên máy dầu bằng kim loại (dây xích) có tổng giá trị là 3.000.000 đồng; và khoảng 16 giờ 30 phút ngày 22/7/2021, bị cáo Hồ Văn T và bị cáo Nguyễn Văn B1 đã lợi dụng việc ông Nguyễn Công B2 đặt máy bơm nước ở bờ ruộng vắng vẻ, không ai quản lý, hai bị cáo đã lén lút cùng nhau thực hiện hành vi trộm 01 đầu máy dầu NS70CTG và 01 dàn sắt xi có tổng giá trị là 2.300.000 đồng, tổng giá trị tài sản hai bị cáo đã chiếm đoạt là 5.300.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo Hồ Văn T và Nguyễn Văn B1 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với các bị cáo với tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Hồ Văn T: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo có 1 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo T thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; tài sản hai bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, bị cáo là lao động nghèo, trình độ văn hóa còn hạn chế, là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù. Bị cáo Hồ Văn T kháng cáo yêu cầu được hưởng án treo. Xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác đựợc pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo kháng cáo bổ sung giấy xác nhận gia đình bị cáo có ông Hồ Văn P1 là liệt sĩ, được nhà nước câp Bằng khen Tổ quốc ghi công và ông Hồ Văn M1 có công với Cách Mạng nhưng bị cáo không có cung cấp mối quan hệ thân thuộc với những người này. Ngoài ra bị cáo, trình bày trong đơn kháng cáo có bà nội là Mẹ Việt Nam Anh Hùng nhưng bị cáo không có chứng cứ gì để chứng minh nên không có căn cứ để xem xét cho bị cáo. Đối với bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 02 lần trong 02 ngày liên tiếp, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự, nên bị cáo không đủ điều kiện để hưởng án treo theo quy định Điều 65 Bộ luật Hình sự, mà phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mới có khả N cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Do đó, bị cáo yêu cầu được hưởng án treo là không có căn cứ, cần giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2021/HS-ST ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Long An về hình phạt đối với bị cáo Hồ Văn T như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo Hồ Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

[5] Các quyết định của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Văn T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2021/HS-ST ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Long An về hình phạt đối với bị cáo Hồ Văn T, Tuyên bố: Bị cáo Hồ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Hồ Văn T 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hồ Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các khoản khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-PT

Số hiệu:82/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;