Bản án về tội trộm cắp tài sản số 80/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 80/2022/HS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 72/2022/TLST-HS ngày 17/6/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2022/QĐXXST-HS ngày 01/7/2022 đối với bị cáo:

Lại Văn T, sinh năm 1990 Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn S, xã L, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lại Văn S (đã chết) và bà Phạm Thị P; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 15/01/2021, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/03/2022; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15/02/2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ra quyết định đưa người nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Ngày 29/05/2015, Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt tạm giữ ngày 06/04/2022, tạm giam từ ngày 15/04/2022 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991; trú tại: Tổ H, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Đào Văn T, sinh năm 1975; trú tại: Thôn N, xã L, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Ông Vũ Đức L, sinh năm 1971; trú tại: Thôn S, xã L, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

3. Bà Phạm Thị P, sinh năm 1955; trú tại: Thôn S, xã L, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Phạm Văn C, sinh năm 1973; vắng mặt.

2. Anh Đoàn Việt A, sinh năm 2002; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 04/04/2022, Lại Văn T điều khiển xe môtô biển kiểm soát: 90H1-9366 từ nhà đi đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam thuộc tổ 5, phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý để kiểm tra sức khỏe. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, T đi xuống nhà gửi xe của bệnh viện để lấy xe thì phát hiện xe môtô nhãn hiệu HONDA SH màu đen, biển kiểm soát: 90B3-013.15 của anh Nguyễn Văn T để trong nhà gửi xe vẫn đang để khóa ở chế độ mở cốp nên T đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của anh T để trong cốp xe. Quan sát xung quanh thấy không có ai, T lại gần chiếc xe SH dùng tay ấn mở được cốp xe thì thấy bên trong cốp có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen, 01 ví da màu xanh đen nhãn hiệu Burberry và 01 phong bì thư, T lấy toàn bộ các tài sản này cất vào trong túi quần, đóng cốp xe SH lại rồi quay lại phòng khám bệnh viện lấy kết quả khám sức khỏe. Khoảng 15 phút sau, T quay lại nhà gửi xe bệnh viện thì thấy chiếc xe SH vẫn để ở vị trí cũ nên T tiến lại mở cốp xe một lần nữa mục đích tìm kiếm xem có còn tài sản nào để lấy nhưng không lấy thêm được gì. Sau đó T lấy xe môtô của mình rồi đi về nhà. Trên đường đi, T dừng lại ven đường lấy chiếc ví da và phong bì thư vừa trộm cắp được ra kiểm tra thì thấy bên trong ví có 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và giấy tờ tùy thân, bên trong phong bì thư có 200.000 đồng, T lấy toàn bộ số tiền cất đi, còn ví da, giấy tờ, vỏ phong bì thư T vứt bỏ lại ven đường. Khi đi đến cửa hàng điện thoại ĐT của ông Đào Văn T ở thôn N, xã L, huyện Thanh Liêm, T mang chiếc điện thoại Iphone 7Plus lấy trộm được vào cửa hàng thuê phá mật khẩu mở màn hình điện thoại rồi bán lại chiếc điện thoại cho ông T với giá 1.700.000 đồng. Số tiền trộm cắp được của anh T và tiền bán chiếc điện thoại T đã sử dụng tiêu sài cá nhân còn lại 1.555.000 đồng.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản để trong cốp xe môtô SH, ngày 05/04/2022 anh Nguyễn Văn T đã đến Công an thành phố Phủ Lý trình báo sự việc. Cùng ngày Lại Văn T cũng tự giác ra đầu thú tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm của mình.

Đối với chiếc điện thoại di động Iphone 7Plus và chiếc ví da Lại Văn T chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn T, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thu hồi lại được để trả cho bị hại.

Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án gồm: 01 chiếc xe máy kiểu xe Wave sơn màu đỏ, biển kiểm soát: 90H1- 9366; số tiền 1.555.000 đồng (gồm 03 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng) bị cáo giao nộp lại để khắc phục hậu quả;

01 chiếc áo phông kiểu dáng thể thao cộc tay, màu xám, trên ngực áo có in chữ “B” màu trắng và 01 chiếc quần dài chất liệu bò màu xanh. Khám xét nơi ở của Lại Văn T thu giữ thêm 01 chiếc mũ bảo hiểm chất liệu nhựa tổng hợp, loại nửa đầu có lưỡi trai màu đỏ, trên mũ có ghi chữ “NIKE”.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 08/KL-HĐĐGTS ngày 14/04/2022, Hội đồng định giá tài sản thường xuyên UBND tỉnh Hà Nam kết luận:“01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen, dung lượng bộ nhớ trong 32Gb đã qua sử dụng giá còn 3.000.000 đồng; 01 chiếc ví chất liệu da nhãn hiệu Burberry màu xanh, đã qua sử dụng giá còn 700.000 đồng”.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe máy biển kiểm soát: 90H1- 9366 cho ông Vũ Đức L.

Bản Cáo trạng số 81/CT-VKS-PL ngày 15/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Lại Văn T về tội:“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Lại Văn T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự:

- Hình phạt chính: Xử phạt Lại Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Phạm Thị P (mẹ đẻ bị cáo) trình bày, xác nhận trong quá trình điều tra bị cáo đã có tác động gia đình để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả bị cáo đã gây ra cho bị hại với số tiền là 3.000.000 đồng bằng tiền tiết kiệm của bị cáo gửi bà giữ hộ, bà và gia đình đã trực tiếp thực hiện việc bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Văn T thay cho bị cáo.

Bị cáo Lại Văn T đã khai toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lại Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp chứng cứ của vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như đơn trình báo của bị hại, biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; biên bản nhận dạng, chỉ dẫn xác định hiện trường, sơ đồ, bản ảnh hiện trường; biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu; kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng; lý lịch tư pháp của bị cáo và các tài liệu khác trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 04/04/2022 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam thuộc tổ 5, phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý, Lại Văn T đã lợi dụng sự sơ hở của người khác trong quản lý tài sản, lén lút lấy trộm của anh Nguyễn Văn T số tài sản gồm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus loại 32Gb màu đen trị giá 3.000.000 đồng, 01 chiếc ví da nhãn hiệu Burberry màu xanh đen trị giá 700.000 đồng và số tiền 700.000 đồng anh T để trong cốp xe môtô gửi tại nhà để xe của bệnh viện. Tổng giá trị tài sản Lại Văn T chiếm đoạt của anh T là 4.400.000 đồng. Hành vi của bị cáo nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhân thân xấu do đã bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích; bản thân đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thời hạn (đều đã hết thời hạn coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 53 của Bộ Luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo; sau khi phạm tội đã tự giác ra đầu thú; đã có tác động gia đình bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả gây ra cho bị hại nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác về tài sản được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo không những gây hậu quả làm thiệt hại về tài sản cho người khác mà còn gây mất trật tự, trị an khu dân cư, tạo tâm lý lo ngại, bức xúc trong nhân dân. Bị cáo là người mặc dù đã bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” nhưng đã không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh, tu dưỡng bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý thể hiện bản chất coi thường pháp luật. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, đồng thời cũng nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người mới chấp hành xong hình phạt tù, không có nghề nghiệp, thu nhập và tài sản nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với ông Đào Văn T là người đã mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus do bị cáo Lại Văn T trộm cắp được mang đến bán, quá trình điều tra đã xác định ông T không biết rõ về nguồn gốc chiếc điện thoại này là tài sản do phạm tội mà có nên hành vi nêu trên của ông T không cấu thành tội phạm, Cơ quan điều tra đã không xem xét, xử lý đối với ông T là có căn cứ.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đối với những tài sản bị cáo chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn T gồm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus, chiếc ví da nhãn hiệu Burberry, tiền mặt và giấy tờ để trong cốp xe môtô, Cơ quan điều tra không thu hồi lại được để trả cho bị hại. Do quá trình điều tra, Lại Văn T đã tác động để gia đình bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Nguyễn Văn T thay bị cáo với số tiền 3.000.000 đồng bằng tiền của bị cáo, anh T đã nhận tiền bồi thường và không có yêu cầu, đề nghị gì thêm về tài sản, giấy tờ đã bị chiếm đoạt và bị mất nên trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với bị hại không đặt ra xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát: 90H1- 9366, quá trình điều tra xác đã định là tài sản hợp pháp của ông Vũ Đức L (em rể bị cáo) giao cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại, do ông L không biết việc bị cáo đã sử dụng chiếc xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe cho ông L. Việc xử lý vật chứng đối với chiếc xe này là đúng quy định của pháp luật, do đó không đặt ra xem xét.

- Đối với số tiền 1.555.000 đồng là tiền do phạm tội mà có được bị cáo giao nộp lại để khắc phục hậu quả. Xét thấy, quá trình điều tra bị cáo đã có tác động gia đình để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả gây ra cho bị hại bằng tiền của bị cáo gửi bà Phạm Thị P (mẹ đẻ bị cáo) giữ hộ, bị hại đã nhận tiền bồi thường và không có yêu cầu gì thêm về việc bồi thường thiệt hại, do đó số tiền đã thu giữ này không còn là vật chứng của vụ án mà là tài sản của bị cáo nên sẽ không tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước mà trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 chiếc áo phông cộc tay màu xám, ngực áo có chữ “B” màu trắng, 01 chiếc quần dài chất liệu bò màu xanh, 01 chiếc mũ bảo hiểm loại nửa đầu là tài sản của bị cáo sử dụng khi phạm tội, do bị cáo không xin nhận lại số tài sản này để sử dụng và là đó là những đồ vật không có giá trị nên sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 47, Điều 50, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 và 3 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, các Điều 329, 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố bị cáo Lại Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo 27 (hai mươi bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 06/04/2022.

2. Xử lý vật chứng:

2.1. Trả lại cho bị cáo Lại Văn T số tiền 1.555.000 đồng.

2.2. Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) chiếc áo phông kiểu dáng thể thao cộc tay, màu xám, trên ngực áo có in chữ “B” màu trắng, 01(một) chiếc quần dài chất liệu bò màu xanh và 01 (một) chiếc mũ bảo hiểm loại lưỡi trai màu đỏ, chất liệu nhựa, trên mũ có ghi chữ “NIKE”.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 27/6/2022 và Ủy nhiệm chi số 35 lập ngày 08/7/2022.

3. Án phí: Bị cáo Lại Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 80/2022/HS-ST

Số hiệu:80/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;