Bản án về tội trộm cắp tài sản số 78/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 78/2022/HS-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 02 tháng 3 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số:

47/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022 với: Bị cáo Nguyễn Thị H; Giới tính: Nữ Tên gọi khác: Bích L.

Sinh năm: 1994; Tại: tỉnh Bến Tre Nơi cư trú: không xác định (nơi đăng ký HKTT: ấp Tân Đông, xã Tân Phú, huyện C, tỉnh Bến Tre).

Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không.

Trình độ học vấn: 06/12 Họ tên cha: Nguyễn Văn H, sinh năm: 1959, còn sống. Họ tên mẹ: Hồ Thị C, sinh năm: 1959, còn sống. Họ tên chị: Nguyễn Ngọc N, sinh năm: 1981.

Họ tên chị: Nguyễn Thị D, sinh năm: 1983, (đã chết). Họ tên chị: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1984.

Họ tên chị: Nguyễn Thị L, sinh năm: 1985. Họ tên anh: Nguyễn Văn T, sinh năm: 1989. Họ tên anh: Nguyễn Văn L, sinh năm: 1992. Họ tên em: Nguyễn Thị P, sinh năm: 1996. Họ tên em: Nguyễn Văn V, sinh năm: 1998.

Họ tên chồng: Huỳnh Thái T, sinh năm 1982 và có 01 con, sinh năm 2017. Tiền án: không có.

Tiền sự: Ngày 07/7/2021, bị UBND phường Trung Dũng, thành phố H, tỉnh Đồng Nai ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản số tiền 1.500.000 đồng (một triệu, năm trăm nghìn đồng), đã đóng phạt ngày 07/7/2021.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/10/2021 theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số: 1151/LTG ngày 25/107/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B. (Có mặt).

- Bị hại:

Anh Vũ Nam A, sinh năm 1987.

Địa chỉ: số ** đường P, khu phố 1, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

( có đơn xin vắng mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Thái Minh H, sinh năm 1993. (có mặt) Địa chỉ: ấp 1, khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

2. Chị Nguyễn Thị Huyền V, sinh năm 1996. (có mặt) Địa chỉ: khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 22/10/2021, Nguyễn Thị H đi bộ nhặt ve chai xung quanh khu vực phường Q, thành phố B. Khi đi đến nhà của anh Vũ Nam A (sinh năm 1987) địa chỉ 34/53 đường Phan Chu Trinh, khu phố 1, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, H nhìn thấy bên trong sân nhà có để 01 (một) chiếc xe mô tô, biển số 60H4- 4684 cắm sẵn chìa khóa xe trên xe và 01 (một) xe mô tô, biển số 60F2- 601.23, nên H đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H đi lại gần cổng thấy cổng không khóa nên đã lén lút mở chốt cửa cổng rồi đi vào trong sân dắt xe mô tô, biển số 60H4- 4684 lùi ra ngoài, mở khóa xe nổ máy điều khiển xe tẩu thoát.

Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô biển số 60H4- 4684 đã trộm cắp trên đi đến khu vực phường A, thành phố B thì gặp anh Thái Minh H (sinh năm 1993) và chị Nguyễn Thị Huyền V (sinh năm 1996, là bạn gái của Hiền) cùng ngụ tại khu phố 2, phường A, thành phố B (là bạn quen biết) nên cả ba dừng lại nói chuyện, nhưng Hạnh không nói cho H, V biết là H mới trộm cắp xe mô tô biển số 60H4- 4684. Sau đó, H nhờ chị V điều khiển chạy xe mô tô biển số 60H4- 4684 về phòng trọ của V, V đồng ý. Sau khi, V điều khiển xe mô tô biển số 60H4- 4684 đi về phòng trọ của mình tại khu phố 2, phường A, thành phố B, thì H gạ bán xe mô tô, biển số 60H4- 4684 cho H với số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) nhưng giấy tờ xe H để ở nhà mấy ngày sau H sẽ đưa giấy tờ xe cho H, H đồng ý mua và đưa cho Hạnh số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) rồi H đi về phòng trọ tại khu phố 2, phường A, thành phố B.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản anh Vũ Nam A trình báo Công an phường Q, thành phố B để giải quyết. Đến ngày 24/12/2021, qua điều tra xác minh Công an phường Q xác định Nguyễn Thị H là người thực hiện hành vi trộm cắp và tiến hành làm việc với Hạnh thì Hạnh đã khai nhận hành vi phạm tội trên, Công an phường Q lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh Sát điều tra Công an thành phố B để điều tra xử lý.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) USB bên trong có chứa đoạn video ghi lại toàn bộ nội dung vụ trộm cắp chiếc xe mô tô biển số: 60H4- 4684 vào ngày 22/10/2021 tại nhà số 34/53 Phan Chu Trinh thuộc khu phố 1, phường Q, thành phố B do anh Vũ Nam A giao nộp. (Lưu hồ sơ vụ án).

- 01 (một) chiếc xe mô tô biển số: 60H4- 4684 do anh Thái Minh Hiền giao nộp là thuộc sở hữu của anh Vũ Nam A nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh Nam A.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 431/KL-HĐĐGTS ngày 25/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự kết luận: “01 (một) xe mô tô, biển số: 60H4 – 4684 có giá trị tài sản định giá là: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng)”.

Về dân sự: Quá trình điều tra, bị hại anh Vũ Nam A đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Thái Minh H không yêu cầu Nguyễn Thị H bồi thường số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 55/CT-VKSBH-HS ngày 17/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hạnh về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 10 (mười) đến 12 (mười hai) tháng tù. Buộc bị cáo chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, kết luận định giá tài sản, biên bản lấy lời khai bị hại, biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 22/10/2020, tại nhà số 34/53 Phan Chu Trinh, khu phố 1, phường Q, thành phố B, Nguyễn Thị H đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 (một) chiếc xe mô tô biển số: 60H4- 4684 trị giá là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) của anh Vũ Nam A thì bị phát hiện bắt giữ điều tra xử lý.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản cáo trạng số 55/CT-VKSBH-HS ngày 17/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “trộm cắp tài sản” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong đời sống của người dân tại các khu dân cư. Bị cáo là người là người đã trưởng thành, biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Hạnh để đảm bảo sự nghiêm minh của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng:

- 01 (một) USB bên trong có chứa đoạn video ghi lại toàn bộ nội dung vụ trộm cắp chiếc xe mô tô biển số: 60H4- 4684 vào ngày 22/10/2021 tại nhà số 34/53 Phan Chu Trinh thuộc khu phố 1, phường Q, thành phố B do anh Vũ Nam A giao nộp, được lưu tại hồ sơ vụ án.

- 01 (một) chiếc xe mô tô biển số: 60H4- 4684 do anh Thái Minh H giao nộp là thuộc sở hữu của anh Vũ Nam A nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh Nam A là phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Quá trình điều tra, bị hại anh Vũ Nam A đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Thái Minh H không yêu cầu Nguyễn Thị H bồi thường số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Đối với anh Thái Văn H có hành vi mua xe mô tô và chị Nguyễn Thị Huyền V có hành vi chứa chấp chiếc xe mô tô biển số: 60H4- 4684 nhưng anh H, chị V không biết xe mô tô là do Hạnh phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không truy cứu trách nhiệm Hình sự đối với anh Hiền, chị Vy là có căn cứ.

[7] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 10 năm 2021.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 78/2022/HS-ST

Số hiệu:78/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;