TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 78/2021/HSST NGÀY 16/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 11 năm 2021, tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Cư M’gar mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2021/TLST-HS, ngày 22 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 76/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Huỳnh Văn S; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1991, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn 7, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Huỳnh Văn X, sinh năm 1971, con bà: Phạm Thị M, sinh năm 1973. Hiện đang sống tại thôn 7, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo có vợ là Võ Thị V, sinh năm 1993 (đã ly hôn); Bị cáo có 01 con sinh năm 2014.
Tiền án: Không;
Tiền sự: 01, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 15/8/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 29/8/2019, Huỳnh Văn S đã chấp hành xong việc cai nghiện bắt buộc.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28 tháng 8 năm 2021 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
Bị hại: Anh Trịnh Văn A, sinh năm 1995. Có mặt. Địa chỉ: Buôn B, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Huỳnh Văn X, sinh năm 1971; Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn 7, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk
Người làm chứng:
- Anh Trương Văn C, sinh năm 1992; Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn 7, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk - Anh Ngân Văn D, sinh năm 1993; Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn 3, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk - Anh Phạm Văn T, sinh năm 1999; Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn 3, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk - Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Buôn B, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 00’ ngày 03/8/2021, Huỳnh Văn S, Trương Văn C (sinh năm: 1991, trú tại: Thôn 7, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk), Ngân Văn D (sinh năm: 1993, trú tại: Thôn 3, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk) và Phạm Văn T (sinh năm: 1999, trú tại: Thôn 3, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk) cùng nhau đến tiệm tạp hóa của bà Nguyễn Thị H (sinh năm: 1968, trú tại buôn B, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk) mua bánh và nước ngọt để ăn uống. Khi đến tiệm tạp hóa của bà H thì S và D đi vào trong quán để mua nước ngọt còn C và T ở bên ngoài đợi, S ở trong quán thấy có chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 của anh Trịnh Văn A (sinh năm: 1995, trú tại buôn B, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk) là con trai bà H đang để trên một bàn gỗ trước quầy tạp hóa, quan sát không thấy có người trông coi nên S đi lại chiếc bàn gỗ lấy trộm chiếc điện thoại di động Iphone 11 của anh A rồi bỏ vào túi quần. Sau đó, S, C, D, T cùng nhau đi đến nghĩa trang thuộc buôn B, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk để sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong thì D và T về trước, S và C về sau.
Sau khi sự việc mình trộm cắp tài sản của S bị phát hiện thì S kể lại cho C nghe và đưa chiếc điện thoại cho C xem thì C khuyên S trả lại chiếc điện thoại cho anh A. Sau đó, S thông báo cho anh A sẽ để điện thoại ở mép đường trên cầu Y thuộc thôn 3, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi để chiếc điện thoại trên ở địa điểm đã hẹn trước thì S và C đi về nhà S còn anh A đi đến địa điểm đã hẹn và nhận lại được chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 trên. Đến ngày 27/8/2021, anh Trịnh Văn A làm đơn trình báo sự việc bị mất trộm tài sản trên cho Cơ quan Công an.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 70/KL-HĐĐGTS, ngày 27/8/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện G, kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu sơn: Đỏ, số IMEI: 352894110801297, mua vào tháng 12 năm 2020, tại thời điểm bị trộm cắp vào ngày 03/8/2021 có giá trị là: 9.700.000đồng.
Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu sơn: Đỏ, số IMEI: 352894110801297.
Tại bản Cáo trạng số 77/CT -VKS, ngày 21 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar để xét xử đối với bị cáo Huỳnh Văn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra.
Qua phần tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội đối với bị cáo, đưa ra các chứng cứ buộc tội và đánh giá tính chất mức, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Đồng thời vẫn giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn S từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
- Về Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu sơn: Đỏ, số IMEI: 352894110801297 cho bị hại anh Trịnh Văn A là chủ sở hữu hợp pháp.
- Về trách nhiệm dân sự: không Tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.
Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cư M’gar, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Xét Lời luận tội cũng như đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận.
[2] Về nội dung: Ngày 03/8/2021 tại tiệm tạp hóa của bà Nguyễn Thị H (sinh năm: 1968) thuộc buôn B, xã E, huyện G, tỉnh Đắk Lắk, Huỳnh Văn S đã có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu đỏ của anh Trịnh Văn A trị giá là: 9.700.000đồng.
Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự thì:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”.
Như vậy, hành vi trộm cắp của bị cáo Huỳnh Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như đã viện dẫn nêu trên.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Không những xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây hoang mang trong nhân dân. Bị cáo nhận thức được rằng quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật Nhà nước bảo vệ. Mọi hành vi chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp sẽ bị xử lý thích đáng theo qui định của pháp luật. Nhưng do bản tính tham lam, lười lao động, muốn nhanh chóng kiếm tiền để sử dụng cho bản thân mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.
Bị cáo đã có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, cụ thể: Ngày 15/8/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sau khi chấp hành xong thời gian cai nghiện bắt buộc và về lại địa phương, bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục tái nghiện và đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Trịnh Văn A nói trên. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện bản chất ngoan cố, coi thường pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian nhất định. Có như vậy mới phát huy được tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội gây thiệt hại không lớn. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.
Đối với Ngân Văn D, Trương Văn C, Phạm Văn T, trong quá trình điều tra vụ án xác định: Khi Huỳnh Văn S thực hiện hành vi Trộm cắp chiếc điện thoại di động thì D, C, T không biết, không liên quan và không hưởng lợi gì. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar không đề cập xử lý là phù hợp, có căn cứ.
Việc Ngân Văn D, Trương Văn C, Phạm Văn T khai nhận cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 03/8/2021. Hiện nay, Công an xã E, huyện G và Công an xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk đang lập hồ sơ xử lý Ngân Văn D, Trương Văn C, Phạm Văn T về hành vi nghiện ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Čư M’gar không đề cập xử lý là phù hợp với quy định pháp luật.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Huỳnh Văn S vào ngày 27/8/2021 thì ngày 03/9/2021, Công an huyện Cư M’gar đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Huỳnh Văn S về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy” là phù hợp với quy định pháp luật.
[3] Về xử lý vật chứng: Cần chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu sơn: Đỏ, số IMEI: 352894110801297 cho bị hại anh Trịnh Văn A là chủ sở hữu hợp pháp.
Đối với ông Huỳnh Văn X là chủ sở hữu xe môtô biển số 47P9 – 1850 đã để cho S sử dụng xe môtô biển số 47P9 – 1850. Trong quá trình sử dụng, S đã tự ý dùng xe mô tô biển số 47P9 – 1850 để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì ông X không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xem xét xử lý là có căn cứ.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì về dân sự nên không đề cập giải quyết.
[5] Về án phí HSST: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật là 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Văn S phạm tội Trộm cắp tài sản.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn S 01 (một) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 28/8/2021.
Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu sơn: Đỏ, số IMEI: 352894110801297 cho bị hại anh Trịnh Văn A là chủ sở hữu hợp pháp.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Huỳnh Văn S phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án đương niêm yết hợp lệ
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 78/2021/HSST
Số hiệu: | 78/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về