Bản án về tội trộm cắp tài sản số 77/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT – TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 77/2020/HS-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 78/2020/HSST ngày 17 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2020/HSST-QĐ ngày 03/7/2020 đối với bị cáo:

Trần Văn A (tên gọi khác: B) - sinh năm 1988, tại BT; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: khu phố C, phường D, thành phố PT, tỉnh BT; Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: lao động biển; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Trần E - sinh năm 1963 và bà Trần Thị F - sinh năm 1961; Cùng trú tại khu phố C, phường D, thành phố PT, tỉnh BT; vợ Nguyễn Thị G (đã ly hôn), có 02 con chung.

Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 09/4/2005, bị UBND phường D áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

1/ Chị Trần Thị H – sinh năm 1974. Trú tại: khu phố C, phường D, thành phố PT, tỉnh BT (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Lê Văn I – sinh năm 1960. Trú tại: khu phố J, phường K, thành phố PT, tỉnh BT (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 17 giờ ngày 21/12/2019, khi đang ở tại bãi biển thuộc khu phố 02, phường D, TP. PT thì Trần Văn A thấy tàu cá mang số hiệu Bth9XXXX của chị Trần Thị H chuẩn bị ra ra khơi đánh cá, nhưng lúc này do thời tiết xấu nên tàu cá của chị H không ra khơi. Vì làm thuê cho tàu cá, biết trên tàu có dầu máy nên A nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Sau đó, A đi về nhà mình. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, A đi bộ từ nhà đến bãi biển thuộc khu phố L, phường D. Khi đến nơi, A thấy có 01 chiếc thuyền thúng (A không biết của ai), A lấy chiếc thuyền thúng rồi chèo thuyền ra tàu cá của chị H đang neo đậu cách bờ khoảng 100m. Khi chèo thuyền đến tàu cá, thấy tàu không có ai trông coi, A lên tàu thì thấy bên trong khoang máy có 06 can nhựa bên trong chứa dầu máy (loại dầu D.O) nên lén lút mang 06 can dầu bỏ lên thuyền thúng rồi chèo vào bờ. A cất giấu 06 can dầu vào bụi cây gần đó rồi đi bộ đến cơ sở nước đá “HH” thuộc khu phố L, phường D gặp anh Đặng Văn M mượn xe mô tô để đi công việc. Anh M đồng ý và đưa cho A mượn chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 86T1-7XXX, A điều khiển xe mô tô trên đi tới nhà ông Lê Văn I và hỏi anh I có mua dầu máy không thì anh I đồng ý. Sau khi thống nhất giá mua bán là 400.000đồng/01 can dầu, A điều khiển xe mô tô quay lại bờ biển và lấy 03 can dầu đã cất giấu trước đó bỏ lên xe chở đến nhà ông I. Khi đến nơi A để 03 can dầu trước sân nhà ông I rồi tiếp tục quay lại bờ biển để chở 03 can dầu còn lại. Ông I nghi ngờ về số tài sản do A mang tới nên đã báo cho Công an phường K, TP.PT. Khoảng 15 phút sau khi A vừa chở 03 can dầu còn lại tới nhà ông I thì bị Công an phường K bắt giữ và mời về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan Công an A đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 15 ngày 10 tháng 02 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố PT kết luận:

- 174 lít dầu D.O (2.784.000 đồng) và 06 chiếc can bằng nhựa (90.000 đồng), trị giá: 2.874.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

+ 06 can nhựa màu vàng (loại thể tích 30 lít), kích thước khoảng 47,5 x 23 x 37 cm. Mặt ngoài mỗi can có dòng chữ “Doanh nghiệp HP”. Bên trong 06 nhựa có chứa tổng cộng 174 lít dầu D.O.

+ 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 86T1-7XXX, số khung: C6308XXXX420, số máy: 5C63-XXX420.

Cơ quan CSĐT-Công an TP.Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại 06 can nhựa bên trong chứa 174 lít dầu D.O cho chị H, sau khi nhận lại tài sản chị H không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 86T1 -7XXX là phương tiện A dùng để thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 21/12/2019, anh M cho A mượn xe để đi công việc nên không biết việc A sử dụng xe mô tô để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Sau đó, Cơ quan CSĐT-Công an TP.Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô nói trên cho anh Đặng Văn M, sau khi nhận lại tài sản anh M không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Tại các lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo, biên bản ghi lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình điều tra đều thể hiện bị cáo Trần Văn A lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 06 can nhựa bên trong chứa 174 lít dầu D.O của bà Trần Thị H.

Với hành vi nêu trên, ngày 08/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT ra bản cáo trạng số 78/CT-VKS truy tố bị cáo A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT phát biểu lời luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi chiếm đoạt 06 can nhựa bên trong chứa 174 lít dầu D.O, do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đề nghị xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì bị cáo Trần Văn A không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Qua đó đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng khoản 01 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Văn A từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT. Bị cáo biết việc làm của mình là sai và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố PT, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, cũng như lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 21/12/2019 tại khu phố L, phường D, TP.Phan Thiết, Trần Văn A đã lén lút trộm cắp 06 can nhựa bên trong chứa 174 lít dầu D.O, trị giá 2.874.000 đồng của chị Trần Thị H.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chị Trần Thị H có tổng trị giá 2.874.000 đồng đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác; bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi và thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý. Do đó Cáo trạng số 78/CT-VKS ngày 08/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố PT truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo không chỉ đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử phạt một mức án tù tương xứng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo A không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 01, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng ngày 09/5/2005, bị UBND phường D áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Trộm cắp tài sản” nên cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Ngày 03/3/2020, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại tài sản cho người bị hại chị Trần Thị H nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 86T1 -7XXX là phương tiện A dùng để thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 20/4/2020, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại tài sản cho anh M. Sau khi nhận lại tài sản anh M không có yêu cầu gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về bồi thường dân sự: Tại phiên tòa người bị hại Trần Thị H vắng mặt nhưng thể hiện tại đơn xin xét xử vắng mặt đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Lê Văn I là người đã mua 06 can dầu do A bán nhưng do người này không biết đây là tài sản có nguồn gốc phạm pháp nên không đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố PT không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với I là có căn cứ.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

* Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

* Xử phạt: Bị cáo Trần Văn A 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo là 15 ngày tròn, đối với bị cáo Trần Văn A có mặt tại phiên tòa kể từ ngày tuyên án (17/7/2020); Đối với người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa kể từ ngày nhận bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 77/2020/HS-ST

Số hiệu:77/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;