Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 76/2023/HS-ST NGÀY 19/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 4 năm 2023 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

- Nguyễn Hữu N (T), sinh năm 1991, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: số C lô B, Phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp:

Không; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Khánh T2 (đã chết); Chưa có vợ; tiền sự: Không; tiền án: Không; Nhân thân: - Ngày 20/11/2019 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 01 năm 3 tháng; Tạm giữ,tạm giam ngày: 30/11/2022; (Có mặt).

- Bị hại: Chị Hồ Yến V, sinh năm 2001; Hộ khẩu thường trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Chổ ở: số A đường T, Phường E, quận G, Tp ..(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 15 ngày 30/11/2022, Nguyễn Hữu N đi bộ từ Bệnh viện A đến Công viên G thuộc phường C, quận G, tìm người nào để tài sản sở hở trộm cắp để bán lấy tiền tiêu xài cho bản thân. Khi N đi đến khu vực C thì thấy chị Hồ Yến V đang ngồi nói chuyện với bạn là anh Ngô Văn H trên 01 ghế đá. Lúc này N thấy chị V có để 01 điện thoại di động hiệu ViVo Y33s kế bên người trên ghế đá nên đã đi lại từ phía sau chị V, dùng tay phải lấy trộm chiếc điện thoại di động của chị V rồi bỏ đi, cùng lúc đó tổ tuần tra của Công an phường C, quận G đang đi tuần tra phát hiện đuổi theo bắt giữ N cùng vật chứng vụ án lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu ViVo Y3s có giá 3.233.333 đồng (theo bản kết luận số 280 ngày 12/12/2022 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp quận ủy ban nhân dân quận G).

Tại Cơ quan CSĐT Công an quận G, N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nêu trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm việc với người bị hại là chị Hồ Yến V phù hợp với lời khai của Nguyễn Hữu N về vị trí để điện thoại, địa điểm gây án, tiến hành cho Nguyễn Hữu N xác định địa điểm gây án, xác nhận hình ảnh. Chị vân đã nhận lại tài sản và không có thắc mắc gì.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Hồ Yến V đã nhận lại tài sản bị mất trộm, không yêu cầu bồi thường và thắc mắc gì.

Tại bản cáo trạng số 76/CTr-VKS, ngày 15/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Nguyễn Hữu N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i,s khoản 1, khỏan 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu N (T) từ 6 đến 9 tháng tù.

Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay khi nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật nên không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về hòa nhập cùng cộng đồng xã hội để có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Nguyễn Hữu N đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận G, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Hữu N đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

[3] Lợi dụng sự mất cảnh giác của bị hại bị cáo đã lén lút lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân của mình mà không phải thông qua lao động chân chính bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật. Xét nhân thân bị cáo đã từng được đưa vào cai nghiện bắt buộc với thời gian 01 năm 3 tháng. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giúp bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, xét tính chất vụ án và bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa hôm nay bị hại vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện đã nhận lại tài sản bị mất không yêu cầu bị cáo bồi thường và yêu cầu gì khác nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu ViVo Y33s có giá 3.233.333 đồng (theo bản kết luận số 280 ngày 12/12/2022 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp quận ủy ban nhân dân quận G). Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại cho chị Hồ Yến V, Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án, nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu N (T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu N (T) 9 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 30/11/2022.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2023/HS-ST

Số hiệu:76/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;