Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 76/2022/HS-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2022/TLST- HS ngày 27 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Ngọc H sinh năm 1974 tại Ninh Bình; nơi cư trú: phố V, phường B, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn B và bà Vũ Thị Th; vợ: Bạch M và 02 con; tiền án: Bản án số 102/2019/HSST ngày 23/9/2019 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/3/2020, nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 28/10/2019; tiền sự: không;

Nhân thân:

+ Bản án số 115/2003/HSST ngày 05/11/2003 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/9/2004, nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 22/12/2003 + Quyết định số 3216/QĐ-UB ngày 05/10/2012, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng. Đã chấp hành xong ngày 03/4/2015;

Bị cáo bị truy nã đến ngày 03/3/2022 ra đầu thú; bị tạm giữ từ ngày 03/3/2022 đến ngày 06/3/2022 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. “Có mặt”.

2. Nguyễn Đình T sinh năm 1986 tại Ninh Bình; nơi cư trú: phố T, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn V và bà Nguyễn S; vợ, con: Chưa có; Tiền án: không;

Tiền sự: + Quyết định số 10/QĐ-XPHC ngày 07/5/2021 Công an phường Ninh Phong, thành phố Ninh Bình xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 2.000.000 đồng về hành vi “trộm cắp tài sản”; đã nộp phạt ngày 14/5/2021.

+ Quyết định số 18/QĐ-UBP ngày 31/12/2022, Chủ tịch Ủy ban phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, quản lý tại gia đình thời hạn 03 tháng;

Nhân thân: + Quyết định số 01 ngày 19/01/2011, Công an phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 500.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”; chưa chấp hành (đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính);

+ Quyết định số 08/QĐ-XPHC ngày 16/12/2011, Công an phường Nam Bình, thành phố Ninh Bình xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 500.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”; Đã nộp phạt ngày 19/12/2011;

+ Quyết định số 09/QĐ-XPHC ngày 12/3/2012, Công an phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi “trộm cắp tài sản”; chưa chấp hành ( đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính);

+ Quyết định số 07/QĐ-UB ngày 03/01/2012, Chủ tịch Ủy ban thành phố Ninh Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng; đã chấp hành xong ngày 12/3/2014;

+ Quyết định số 42/QĐ-XPHC, ngày 31/7/2015 Công an phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; đã nộp phạt ngày 25/8/2015;

+ Quyết định số 01/QĐ-XPHC ngày 21/9/2015 Công an phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình xử phạt vi phạm hành chính 500.000 về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”; đã nộp phạt ngày 21/9/2015;

+ Bản án số 149/2017/HSST ngày 30/11/2017, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/4/2019. Nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 22/6/2018;

+ Quyết định số 17/QĐ-UBP ngày 01/4/2020, Chủ tịch Ủy ban phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, quản lý tại gia đình thời hạn 06 tháng; Đã chấp hành xong ngày 01/7/2020;

+ Bản án số 134/2021/HSST ngày 13/12/2021 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. (Ngày thực hiện hành vi phạm tội 10/7/2021, bị cáo chưa chấp hành bản án này).

Bị cáo bị truy nã đến ngày 11/02/2022 ra đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 11/02/2022 đến ngày 14/02/2022 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. “Có mặt”.

3. Đỗ Đức L sinh năm 1988 tại Ninh Bình; nơi cư trú:, phố P, Phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn L và bà Nguyễn Thị O; vợ, con: chưa có;

Tiền án: Bản án số 124/2020/HSST ngày 19/8/2020, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/4/2021, nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 02/11/2020.

Tiền sự: Quyết định số 14/QĐ-CT ngày 12/10/2021, Chủ tịch ủy ban nhân dân phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường thời hạn 03 tháng.

Nhân thân: Bản án số 20/2022/HSST ngày 23/02/2022 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/11/2021;

200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (ngày thực hiện hành vi phạm tội 12/10/2021; số lượng ma túy dưới mức quy định nên bản án số 124/2020/HSST ngày 19/8/2020 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” được làm căn cứ định tội, không bị áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm). Nộp án phí hình sự ngày 22/4/2022, hiện đang chấp hành án tại phân trại số 1, trại giam số 3, xã Nghĩa Dũng, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. “Có mặt”.

- Bị hại: anh Bùi Q sinh năm 1973; nơi cư trú: phố X, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh bình. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Đình T, Đỗ Đức L có mối quan hệ bạn bè quen biết xã hội. Chiều ngày 27/09/2021, Nguyễn Ngọc H đến đón Nguyễn Đình T về nhà tại phố V, phường B, thành phố Ninh Bình chơi. Do H biết bản thân T đang khó khăn nên khi H chở T về nhà, H nói “đi đến chỗ này với anh xem cái cây, nếu lấy được thì lấy cho anh để bán”. Sau đó H chở T đến trước cửa nhà anh Bùi Q sinh năm 1973 ở ngõ H, đường N, phố P, phường N, thành phố Ninh Bình và chỉ cho T một cây hoa mẫu đơn hoa màu đỏ trồng trong chậu đá, cao khoảng 90cm đặt ngoài vỉa hè bên phải cửa nhà anh Q. Khi đã xác định được tài sản cần trộm cắp, H trở T đi về. T hiểu ý H nói và chỉ địa điểm cây hoa mẫu đơn để T tìm cách lấy trộm, nếu lấy được thì T đưa H bán. Khoảng 23 giờ ngày 28/09/2021, T gọi điện cho Đỗ Đức L hỏi “mày có xe máy không, lên chở anh đi lấy cái cây”, T không nói cho L biết việc chở T đi trộm cắp cây hoa mẫu đơn, L đồng ý. Đến khoảng 1 giờ 30 phút ngày 29/9/2021, T gọi điện cho L giục đến đón, sau đó L điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh bạc Biển kiểm soát ….mượn của bạn là anh Phan Văn Q, sinh năm 1988, trú tại phố P, phường N, thành phố Ninh Bình đến nhà T và chở T đi. T chỉ đường bảo L chở đến đầu ngõ H, đường N, phố P, phường N, thành phố Ninh Bình rồi T xuống xe cầm theo bọc vải màu đỏ chuẩn bị sẵn ở nhà bên trong có 01 kìm sắt cầm tay, 01 chiếc bay xây dựng và đi đến vỉa hè nhà anh Q đồng thời bảo L ở ngoài đợi, sau đó L điều khiển xe môtô lên ngõ trên đợi T. Trên đường đi bộ đến nhà anh Q, T nhặt 01 gậy tre và 01 túi nilong màu hồng ở ven đường rồi dùng gậy tre treo túi nilon lên trước mắt camera an ninh nhà anh Q để che đi hình ảnh của bản thân, sau đó T dùng 01 dây thép dài 30cm và 01 đoạn dây nilong dài 70cm nhặt trong xô ở gốc cây khế rồi buộc bên ngoài cửa hông ra vào nhà anh Q. Khi đã đảm bảo không bị chủ nhà phát hiện hành vi trộm cắp tài sản của mình, T dùng kìm sắt cầm tay cắt đứt đoạn dây cáp anh Q buộc bảo vệ cây hoa mẫu đơn, sau đó T lấy chiếc bay xây dựng đã chuẩn bị từ trước cùng 01 chiếc xà cầy sắt vằn phi 20, dài 70 cm ở trong xô trước cửa nhà anh Q để đào đất xung quanh gốc cây hoa mẫu đơn. Khoảng 30 phút sau, L không thấy T đi ra nên dắt xe mô tô đi vào ngõ tìm T, lúc này L nhìn thấy T đang đứng trước nhà số S, thấy T người lấm lem đất cát cạnh chậu cây đang đào bới dở trước cửa ngôi nhà không có ai trông coi, lúc này L mới biết T đi trộm cắp cây hoa mẫu đơn. Khi thấy L đi vào, T liền giục “mày vào mày nhổ anh cái cây, một mình anh không nhổ được lên”, L thấy vậy vào giúp T lay cây, nhấc ra khỏi chậu và cùng T bê cây hoa mẫu đơn đặt lên yên xe môtô rồi chở T cùng tài sản trộm cắp rời đi. Khi đi, T bỏ vào bọc vải màu đỏ 01 kìm sắt cầm tay, 01 bay xây dựng của mình và lấy luôn 01 chiếc xà cầy sắt của nhà anh Q, bản thân L chỉ biết T lấy trộm cây hoa mẫu đơn, không biết T lấy trộm chiếc xà cầy sắt nhà anh Q. Quá trình di chuyển, T gọi điện cho H để thông báo đã lấy được cây hoa mẫu đơn nhưng H không nghe máy và làm rơi 01 chiếc bay xây dựng. Do cây to và sợ bị phát hiện nên T bảo L giấu cây hoa mẫu đơn ở bụi cây hoang tại bãi đất trống ở bên phải đường Nguyễn Văn C, khu đằng sau kho nhà ga cũ Ninh Bình thuộc phố C, phường N, thành phố Ninh Bình cùng công cụ để trộm cắp tài sản, vị trí giấu cây cách nhà anh Q 230m, sau đó L trở T đi về. Khoảng 6 giờ ngày 29/09/2021, anh Q dậy phát hiện cửa hông nhà bị buộc 01 dây thép và 01 đoạn dây nilong, cây hoa mẫu đơn trồng trong chậu đặt trước cửa nhà bị mất, camera an ninh bị che kín bằng 01 túi nilon màu hồng nên trình báo Công an phường N, thành phố Ninh Bình đồng thời giao nộp cho công an phường N 01 dây thép, 01 đoạn dây nilong, 01 túi nilon màu hồng. Trưa ngày 29/9/2021, H thấy cuộc gọi nhỡ của T nên gọi điện lại cho T thì T nói đã lấy được cây hoa mẫu đơn và đang giấu ở bụi cây sau ga thuộc phố C, phường N và bảo H đến lấy. Để tránh bị người dân phát hiện, T và H thống nhất đến tối sẽ đi lấy cây. Đến khoảng 20 giờ ngày 29/09/2021, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Vespa, màu trắng biển kiểm soát 35B2-825.26 chở T cùng đi lấy cây hoa mẫu đơn. Khi đến nơi T cất giấu cây hoa mẫu đơn cùng 01 chiếc xà cầy sắt đã trộm cắp nhà anh Q, H xác định T đã trộm cắp cây hoa mẫu đơn mà H đã chỉ cho T trước đó rồi di dời ra địa điểm khác, nhưng không biết T trộm cắp cả chiếc xà cầy sắt nhà anh Q. Do cây hoa mẫu đơn to không chở được bằng xe máy, H quay về mượn xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA INNOVA, màu trắng Biển kiểm soát 30E- 334.63 của anh X, sinh năm 1973, trú tại phố P, phường P, thành phố Ninh Bình với lý do để đi chở đồ, anh X đồng ý cho H mượn. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi mượn được xe ô tô của anh X, H điều khiển xe ô tô đến vị trí T giấu cây rồi cùng T bê cây hoa mẫu đơn bỏ vào sau xe, Tư bỏ chiếc xà cầy sắt lên xe ô tô Biển kiểm soát 30E-334.63 thì lúc này Tổ tuần tra của Công an phường N, thành phố Ninh Bình làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện. T cầm theo kìm sắt, chiếc lưới màu đen để bó cây hoa mẫu đơn bỏ chạy và làm rơi chiếc kìm và chiếc lưới, T trốn vào trong bụi cây cách nơi đỗ xe ô tô khoảng 50 mét, còn H bị Tổ công tác giữ lại và kiểm tra. Tại chỗ H khai nhận đang cùng Nguyễn Đình T bê cây hoa mẫu đơn T trộm cắp để đi cất giấu. Tổ công tác tiến hành lập biên bản sự việc và thu giữ của Nguyễn Ngọc H 01 xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA INNOVA màu trắng Biển kiểm soát 30E-334.63; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen, 01 cưa máy cầm tay, 01 xà cầy bằng sắt dài 70cm ; 01 cây hoa mẫu đơn hoa màu đỏ, cây có 02 thân, 1 thân đường kính 6,5cm, 1 thân đường kính 7,5cm, chiều cao 90cm. Sau khi bỏ chạy biết không thể che giấu được hành vi phạm tội T đã đến công an phường N và khai nhận hành vi trộm cắp cây hoa mẫu đơn cùng Đỗ Đức L sau đó cùng Nguyễn Ngọc H dùng xe ô tô lấy cây hoa mẫu đơn đi cất giấu, ngoài ra T còn lấy 01 chiếc xà cầy sắt của nhà anh Q nhưng L, H không biết việc này. Sáng ngày 30/09/2021, Công an phường N triệu tập Đỗ Đức L lên làm việc, tại cơ quan công an Đỗ Đức L đã thừa nhận hành vi trộm cắp cây hoa mẫu đơn cùng Nguyễn Đình T. Qúa trình điều tra cơ quan điều tra tiến hành truy tìm vật chứng và thu giữ được 01 kìm sắt bằng kim loại, tay nắm nhựa màu đỏ là công cụ T sử dụng khi trộm cắp tài sản khi bỏ chạy đã làm rơi.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 76/KL-HĐĐGTS ngày 11/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận: 01 cây hoa mẫu đơn, hoa màu đỏ, chu vi (vanh) gốc 22cm, cây có 02 thân, 1 thân đường kính 6,5cm, 1 thân đường kính 7,5cm, chiều cao 90cm, tán rộng 90cm có giá trị là 5.000.000 đồng và 01 xà cầy bằng sắt vằn phi 20, dài 70cm có giá trị là 70.000 đồng. Sau khi có kết luận định giá tài sản Nguyễn Ngọc H và bị hại anh Bùi Q đề nghị cơ quan điều tra định giá lại tài sản cây hoa mẫu đơn.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐGTS ngày 27/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình kết luận: 01 cây hoa mẫu đơn, hoa màu đỏ, chu vi (vanh) gốc 22cm, cây có 02 thân, 1 thân đường kính 6,5cm, 1 thân đường kính 7,5cm, chiều cao 90cm, tán rộng 90cm có giá trị là 9.000.000 đồng.

Nguyễn Đình T, Đỗ Đức L, Nguyễn Ngọc H và bị hại anh Bùi Q nhất trí với Kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐGTS ngày 27/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình đối với cây hoa mẫu đơn.

Tại bản cáo trạng số 65/CT-VKSNDTPNB ngày 25/5/2022,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Đình T, Đỗ Đức L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Đình T, Đỗ Đức L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Ngọc H. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H từ 18 tháng đến 21 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 03/3/2022.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 15 tháng tù tại Bản án số 134/2021/HSST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là từ 33 tháng đến 36 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 11/02/2022.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đỗ Đức L. Xử phạt bị cáo Đỗ Đức L từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 15 tháng tù tại Bản án số 20/2022/HSST ngày 23/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là từ 30 tháng đến 33 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/11/2021.

Về trách nhiệm dân sự: không đặt ra xem xét giải quyết Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu đen thu giữ của Nguyễn Ngọc H; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO F9, màu tím xanh thu giữ của Nguyễn Đình T .

- Tich thu tiêu hủy 01 kìm sắt bằng kim loại, tay nắm nhựa màu đỏ; 01 túi bóng nilon màu hồng.

- Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người bị hại: anh Bùi Q sinh năm 1973 ở phố P, phường N, thành phố Ninh Bình khai: khoảng 06 giờ ngày 29/9/2022, anh ngủ dậy soi camera trước cửa nhà thì phát hiện mắt camera bị đen, không thấy hình ảnh như bình thường, anh ra kiểm tra thì thấy đất tung tóe trước cửa nhà và trên vỉa hè; cửa hông nhà bị buộc 01 dây thép và 01 đoạn dây nilon; camera an ninh bị che kín bằng 01 túi nilon màu hồng; cuộn dây cáp dù khoảng 7m buộc cố định cây hoa mẫu đơn với chậu cây bị cắt đứt, cây hoa mẫu đơn loại 02 thân, cao khoảng 1m có hoa màu đỏ trồng trong chậu đặt trước cửa nhà và 01 chiếc xà cầy bằng sắt vằn phi 20, dài 70cm bị mất. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã trả lại cho anh 01 cây hoa mẫu đơn; 01 xà cầy bằng sắt vằn phi 20, dài 70cm; 01 cuộn dây cáp dài 07 mét, bên ngoài bọc nhựa; 01 dây thép loại 1 li dài 30cm; 01 dây nilon màu đỏ, anh đã nhân lại tài sản và không đề nghị gì về trách nhiệm dân sự; về trách nhiệm hình sự: anh đề nghị các cơ quan pháp luật xử lý các đối tượng trộm cắp theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi các bị cáo thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố và nhận thấy Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội các bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của bị hại; phù hợp với Biên bản sự việc ngày 29/9/2021; phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Với các chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: chiều ngày 27/9/2021, Nguyễn Ngọc H dẫn Nguyễn Đình T đến vị trí cây hoa mẫu đơn của anh Bùi Q, ở Số nhà K, ngõ H, đường N, phố P, phường Nam Bình, thành phố Ninh Bình và bảo T lấy trộm cây hoa mẫu đơn để bán. Khoảng 02 giờ ngày 29/9/2021, T và L đến nhà anh Q, T lấy 01 xà cầy bằng sắt vằn của anh Q dùng làm công cụ rồi cùng L lén lút chiếm đoạt cây hoa mẫu đơn mang đi cất giấu ở bãi đất hoang gần đó đến khoảng 21 giờ cùng ngày H và T sử dụng xe ô tô TOYOTA INNOVA, màu trắng Biển kiểm soát 30E-334.63 đến khu vực cất giấu để lấy tài sản đã trộm cắp được thì bị Công an phường Nam Bình phát hiện bắt giữ.

Tổng giá trị tài sản Nguyễn Đình T chiếm đoạt là 9.070.000 đồng. Đỗ Đức L và Nguyễn Ngọc H là 9.000.000 đồng. Hành vi nêu trên của các bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự;

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

…….

Hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo không những đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, tài sản các bị cáo trộm cắp là cây cảnh giá trị kinh tế không lớn nhưng gây bức súc, bất bình trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là những khách thể được luật hình sự bảo vệ. Các bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện. Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự, xét thấy hành vi, tội danh, điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, các chứng cứ buộc tôi các bị cáo của Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ.

Để bảo đảm trật tự xã hôi, có tác dụng giáo dục riêng đối với các bị cáo, phòng ngừa chung thì việc truy tố, đưa ra xét xử và phải có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo gây ra để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở lại thành người công dân làm ăn lương thiện, sống có ích cho gia đình và xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa đồng thời để răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.

Trong vụ án có ba bị cáo tham gia, song không mang tính chất tổ chức, mà đồng phạm tính chất giản đơn. Xét về vai trò, tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo như sau: bị cáo Nguyễn Ngọc H là người khởi xướng; bị cáo Nguyễn Đình T là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp một cách tích cực nên hai bị cáo có vai trò ngang nhau; bị cáo Đỗ Đức L đồng phạm với vai trò giúp sức.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Ngọc H, Đỗ Đức L đã có tiền án, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo H, và bị cáo T sau khi phạm tội bỏ trốn sau đó đã ra đầu thú nên áp dụng cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự Về nhân thân: các bị cáo là những người có nhân thân xấu. Cụ thể các bị cáo đều đã bị xử lý về hình sự, xử lý về hành chính về nhiều hành vi vi phạm pháp luật nhiều lần.

Về hình phạt:

Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, sự ăn năn hối cải của các bị cáo thể hiện tại phiên tòa, số tiền các bị cáo chiếm đoạt; Hội đồng xét xử thấy:

Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Đình T còn phải chấp hành hình phạt của Bản án số 134/2021/HSST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Đỗ Đức L còn phải chấp hành hình phạt của Bản án số 20/2022/HSST ngày 23/02/2022 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” cần tổng hợp với hình phạt của bản án này buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo quy định tại Điều 55, 56 của Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có việc làm ổn định, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã trả lại tài sản cho bị hại - anh Bùi Q 01 cây hoa mẫu đơn; 01 xà cầy bằng sắt vằn phi 20, dài 70cm; 01 cuộn dây cáp dài 07 mét, bên ngoài bọc nhựa; 01 dây thép loại 1 li dài 30cm; 01 dây nilong màu đỏ. Anh Bùi Q đã nhận đủ tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác nên không đưa ra xem xét giải quyết.

[3] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA INNOVA, màu trắng Biển kiểm soát 30E-334.63, 01 chiếc cưa máy cầm tay màu xanh, nhãn hiệu OSHIMA, số 0S-5900 thu giữ của Nguyễn Ngọc H, quá trình điều tra xác định số tài sản trên của anh X, tối ngày 29/9/2021 H đến nhà anh X mượn xe ô tô nói đi chở đồ trên xe ô tô của anh X có để một chiếc cưa máy cầm tay, việc H mượn xe ô tô của anh X sau đó làm phương tiện đi chở cây hoa mẫu đơn trộm cắp anh X không biết nên không vi phạm. Cơ quan điều tra trả lại số tài sản trên cho anh X là có căn cứ đúng quy định.

Đối với 01 xe môtô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER, biển kiểm soát 16K4- 6965 thu giữ của Đỗ Đức L sử dụng làm phương tiện chở cây hoa mẫu đơn Nguyễn Đình T trộm cắp, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu chiếc xe mô tô trên là anh Nguyễn Văn K sinh năm 1992 trú tại xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Tháng 5 năm 2020 anh K cho anh Vũ Thanh U sinh năm 1987 trú tại xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình mượn làm phương tiện đi lại sau đó anh U cho anh Phan Văn Qu sinh năm 1988 trú tại phố P, phường N mượn để đi lại. Ngày 28/9/2021 anh Qu cho Đỗ Đức L mượn đi có việc nhưng không biết L sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho anh Nguyễn Văn K là có căn cứ đúng quy định.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu đen, sử dụng sim số 0981.952.031 thu giữ của Nguyễn Ngọc H; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO F9, màu tím xanh lắp sim số 0946.271.135 thu giữ của Nguyễn Đình T là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc liên lạc để đi trộm cắp tài sản nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 kìm sắt bằng kim loại, tay nắm nhựa màu đỏ, 01 túi bóng nilong màu hồng Là công cụ sử dụng vào việc phạm tội không có giá trị kinh tế cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Các bị cáo Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Đình T và Đỗ Đức L bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Ngọc H.

- Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đình T.

- Khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đỗ Đức L

1. Tuyên bố: các bị cáo Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Đình T và Đỗ Đức L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 03/3/2022.

2.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T 18 (Mười tám) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 15 (Mười lăm) tháng tù tại bản án số 134/2021/HSST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 33 (Ba mươi ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 11/02/2022.

2.3. Xử phạt bị cáo Đỗ Đức L 15 (Mười lăm) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 15 (Mười lăm) tháng tù tại bản án số 20/2022/HSST ngày 23/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/11/2021.

3. Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu đen thu giữ của Nguyễn Ngọc H; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO F9, màu tím xanh thu giữ của Nguyễn Đình T .

- Tich thu tiêu hủy 01 kìm sắt bằng kim loại, tay nắm nhựa màu đỏ, 01 túi bóng nilong màu hồng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án thành phố Ninh Bình ngày 10/6/2022).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Buộc Nguyễn Đình T, Đỗ Đức L và Nguyễn Ngọc H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 tính từ ngày tuyên án (08/7/2022); người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2022/HS-ST

Số hiệu:76/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;