TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 75/2022/HS-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2022/TLST- HS, ngày 22 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2022/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:
Trương Ngọc H, sinh ngày 27 tháng 7 năm 2002 tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú tổ 01, khu phố 02, phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Ngọc T, sinh năm 1972 và bà Trần Thị H, sinh năm 1973; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trương Ngọc H: Ông Trương Ngọc T, sinh năm 1972 và bà Trần Thị H, sinh năm 1973; nơi cư trú tổ 01, khu phố 02, phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định, là cha và mẹ ruột của bị cáo đại diện theo pháp luật, ông T vắng mặt, bà H có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Trương Ngọc H: Bà Lê Tôn Nữ Kim Y – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bình Định, có mặt.
Người bị hại: Ông Huỳnh Bá T, sinh năm 1977; nơi cư trú: Khu phố V, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
Người làm chứng:
1. Nguyễn Văn T, sinh năm 1998; nơi cư trú tổ 01, khu phố 02, phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
2. Trương Ngọc H, sinh năm 1979; nơi cư trú tổ 01, khu phố 02, phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Để có tiền tiêu xài, Nguyễn Văn T rủ Trương Ngọc H trú ở cùng địa phương đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài thì H đồng ý. Khoảng 00 giờ 00 phút ngày 06/9/2021, H điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave màu xanh, biển kiểm soát 77M5- 6382 (xe này do ông Trương Ngọc H chú ruột của H đứng tên chủ sở hữu và đã cho ông Trương Ngọc T, cha ruột H sử dụng) chở T đi dạo tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi đến vườn cây cảnh của ông Huỳnh Bá T ở khu phố V, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định, H và T thấy vườn cây cảnh không có người trông coi. H dựng xe đứng ở ngoài cảnh giới, T leo qua rào lưới B40 vào vườn cây cảnh của anh T nhổ 01 gốc mai dáng trực, loại mai lùn được trồng trong ống bi bê tông trên nền đất mang ra đưa qua hàng rào cho H đứng ở ngoài lấy, rồi T trèo rào ra sau. Sau khi trộm xong, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77M5-6382 chở H ngồi sau ôm cây mai đi về hướng phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định để tìm nơi tiêu thụ. Khi đi đến đường H thuộc thành phố Q, tỉnh Bình Định thì bị tổ công tác Công tác Công an thành phố Q tuần tra phát hiện bắt giữ cùng tang vật và đưa về trụ sở Công an để làm việc.
Ngày 07/10/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T đã định giá và kết luận: 01 (một) cây mai, dáng trực có 09 chi, cao 110cm, đường kính gốc 10cm, tán rộng 90cm của anh Huỳnh Bá T tại thời điểm bị mất trộm có giá trị thành tiền là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Q đã bàn giao cây mai trên cho ông Huỳnh Bá T, anh T không yêu cầu bồi thường gì. Đối với xe mô tô biển kiểm soát 77M5-6382 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Q tiếp tục tạm giữ để điều tra trong một vụ trộm cắp tài sản khác xảy ra tại thành phố Q.
Theo kết luận giám định số 346/KLGĐ ngày 29/3/2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền trung kết luận đối với Trương Ngọc H:
- Tại thời điểm gây án:
Về y học: Chậm phát triển tâm thần mức độ trung bình (F71) + Động kinh cơn lớn có biến đổi trí năng nhân cách (G40);
Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
- Tại thời điểm hiện tại:
Về y học: Chậm phát triển tâm thần mức độ trung bình (F71) + động kinh cơn lớn có biến đổi trí năng nhân cách (G40). Đối tượng cần điều trị ngoại trú liên tục.
Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại bản Cáo trạng số 47/CT-VKS-TP ngày 19 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Trương Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trương Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i, q, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ.
Về bồi thường thiệt hại: Đề nghị không xem xét.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung.
Bị cáo không tự bào chữa.
* Bà Lê Tôn Nữ Kim Y là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định bào chữa cho bị cáo Trương Ngọc H trình bày luận cứ bào chữa: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, q, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo 06 tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo không trình bày bổ sung ý kiến bào chữa trên của người bào chữa.
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, chỉ yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trong lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phước và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, nhân chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ xác định khoảng 00 giờ 00 phút, ngày 06/9/2021 tại vườn cây cảnh của ông Huỳnh Bá T thuộc khu phố V, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định bị cáo Trương Ngọc H và Nguyễn Văn T đã có hành vi lén lút nhổ 01 cây mai dáng trực, loại mai lùn được trồng trong ống bi bê tông trên nền đất của ông Huỳnh Bá T rồi mang ra ngoài để tìm nơi tiêu thụ, theo kết luận định giá tài sản thì tại thời điểm bị mất trộm cây mai có giá trị thành tiền là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Trương Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, do đó cần xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự nhằm để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.
[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy rằng trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, q, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Bị cáo Trương Ngọc H có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi nên không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, do đó khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử áp dụng Điều 36 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ để tạo điều kiện cho bị cáo được ở ngoài chữa bệnh, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.
[6] Về bồi thường thiệt hại: Ông Huỳnh Bá T đã nhận lại cây mai bị trộm cắp, ông T không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự còn qui định hình phạt bằng tiền, nhưng xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[8] Đối với hành vi trộm cắp của Nguyễn Văn T đã được giải quyết trong một vụ án khác.
[9] Về án phí: Theo quy định tại các Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trương Ngọc H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[10] Xét những chứng cứ mà kiểm sát viên dùng để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm i, q, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 135, 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào các điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trương Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trương Ngọc H 09 (chín) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao Bản án.
2.1. Giao bị cáo Trương Ngọc H cho Uỷ ban nhân dân phường Nhơn Phú, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.
2.2. Người bị kết án Cải tạo không giam giữ phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.
2.3. Miễn khấu trừ thu nhập của bị cáo.
3. Về án phí: Bị cáo Trương Ngọc H phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo Bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 17/8/2022). Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 75/2022/HS-ST
Số hiệu: | 75/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về