Bản án về tội trộm cắp tài sản số 75/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 75/2022/HS-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 4 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình S, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15 tháng 10 năm 1979; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ dân phố H, phường B, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 3/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn Đình T, đã chết, con bà: Trần Thị H, sinh năm 1961; có vợ là Tô Thị B, sinh năm 1978 (đã ly hôn), có 03 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2009; Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất;

Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 101 ngày 25/01/2005 của Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, tỉnh Thái Nguyên, xử phạt S 200.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2005/HSST ngày 14/7/2005 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt S 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án phạt tù xong ngày 01/10/2006; thi hành xong án phí và tiền tịch thu ngày 03/10/2006.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại: Chị Trần Thị H, sinh năm 1986 - có đơn xin xét xử vắng mặt.

HKTT: Tổ 11, phường Q, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

Bà Trần Thị H1, sinh năm 1961 - có mặt.

HKTT: Tổ 10, phường V, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên.

- Người làm chứng:

Anh Phạm Thuỳ A, sinh năm 1981 – vắng mặt.

HKTT: Tổ 11, phường Q, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên.

Chị Nguyễn Thị H2, sinh năm 1983 - vắng mặt.

HKTT: TDP H, phường B, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 13/10/2021, Nguyễn Đình S một mình đi bộ trong khu vực chợ Chùa Hang thuộc tổ 06, phường H, thành phố N. Khi S đi qua quầy bán vải Hải Chung của chị Trần Thị H, S quan sát thấy có 01 (một) chiếc điện thoại di động Iphone 11 Promax, màu xanh (điện thoại của chị H) để tại sạp giữa quầy hàng. S quan sát không thấy có ai trông coi, quản lý tài sản nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại di động nhằm bán lấy tiền tiêu xài. S lén lút bước vào quầy rồi dùng tay phải cầm lấy chiếc điện thoại, đút vào túi quần đằng trước bên phải đang mặc rồi nhanh chóng bỏ đi. S mang chiếc điện thoại về nhà ở tổ dân phố H, phường B, thành phố N rồi mang ra kiểm tra nhưng do điện thoại có cài mật khẩu nên S tắt nguồn và mang đến 01 cửa hàng sửa điện thoại tại khu vực đường tròn Chùa Hang để bán cho 01 người tên N (không rõ thông tin, địa chỉ người này và không xác định được là cửa hàng nào) với giá 1.500.000đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). S sử dụng số tiền vừa có được đi mua đồ ăn hết số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng).

Ngay sau khi S bỏ đi, chị H phát hiện mất chiếc điện thoại nên đã kiểm tra camera và trích xuất được hình ảnh của S. Sau đó, anh Phạm Thuỳ A (chồng của chị H) đã định vị được chiếc điện thoại của chị H bị mất trộm tại khu vực tổ dân phố N, phường B, thành phố N. Khi anh Thuỳ A đến khu vực này và hỏi người dân thông qua đặc điểm nhận dạng qua camera, được người dân cho biết người trong camera là S, nhưng S đi vắng, không có mặt ở nhà.

Khoảng 21 giờ cùng ngày, vợ chồng chị H đã liên hệ và đến nhà bà Trần Thị H1 (mẹ của S) để nói chuyện. Sau khi biết chuyện, bà H1 đã gọi điện hỏi S thì S đã thú nhận hành vi trộm cắp chiếc điện thoại di động nêu trên. S sợ bị Cơ quan Công an xử lý và không muốn chị H đi trình báo sự việc nên S xin bà H1 500.000 đồng và đưa cho bà H1 số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) còn lại khi bán điện thoại để bà H1 đi chuộc lại chiếc điện thoại di động. Khoảng 8 giờ 00 phút ngày 14/10/2021, sau khi được S liên hệ, hẹn gặp tại khu vực đường tròn Chùa Hang, thành phố N thì bà H1 đi gặp người đàn ông mà S đã bán điện thoại, đưa 1.500.000 đồng để lấy chiếc điện thoại di động về và đưa lại cho chị Nguyễn Thị H2 (em gái của S) để mang trả lại cho chị H.

Ngày 13/10/2021 sau khi bị mất tài sản, chị H đã trình báo sự việc trên đến Công an phường H, thành phố N để được giải quyết.

Tại Bản kết luận định giá số 360/HĐĐGTS ngày 09/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố N xác định giá trị của 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax, màu xanh, dung lượng 64 Gb,số Imei1: 353915107197073, số Imei2: 353915107197065, đã qua sử dụng nêu trên là: 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu đồng chẵn).

Vật chứng của vụ án là:

- 01 USB chứa dữ liệu Camera liên quan đến nội dung vụ án được chuyển theo hồ sơ vụ án.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax, màu xanh, dung lượng 64 Gb,số Imei1: 353915107197073, số Imei2: 353915107197065. Hiện chị Hương đã nhận lại tài sản.

Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKSTPTN, ngày 08/3/2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Đình S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố đối và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình S phạm tội “Trộm cắp tài sản”:

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình S từ 15 đến 18 tháng tï. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.

Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2].Về nội dung vụ án: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 13/10/2021, tại quầy vải C của chị Trần Thị H ở chợ Chùa Hang, thuộc tổ 6, phường H, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Đình S đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax của chị Trần Thị H. Tại Bản kết luận định giá số 360/HĐĐGTS ngày 09/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố N xác định: 01 điện thoại trên có giá là 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu đồng chẵn). Hiện tài sản trên đã thu hồi và được trả lại chị H quản lý sử dụng, chị H không có yêu cầu gì thêm.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đặc điểm loại tài sản chiếm đoạt, bản kết luận định giá và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 173 Bộ luật hình sự quy định như sau:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người há t iá t đồng đến dưới 50.000.000 đồn ..., thì b phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù t 06 tháng đến 03 năm”

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo được xác định là không có tiền án, tiền sự, nhưng có nhân thân rất xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy, bị cáo đã bị xét xử về cùng loại tội và đã được đi cải tạo, giáo dục nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục có hành vi phạm tôi, điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; sau khi hành vi trộm cắp bị phát hiện, bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả bằng cách nhờ mẹ đi chuộc lại chiếc điện thoại trả cho bị hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4].Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là chị Trần Thị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền 500.000đ bà H1 (mẹ đẻ bị cáo) bỏ ra cùng với số tiền của bị cáo để chuộc điện thoại trả cho chị H, tại phiên tòa, bà H1 không yêu cầu bị cáo phải trả bà số tiền này nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền bị cáo bán điện thoại sau đó đã tiêu xài hết 500.000đ, về nguyên tắc đây là số tiền do phạm tội mà có, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước, tuy nhiên bị cáo và gia đình đã bỏ ra số tiền tương ứng để chuộc lại tài sản trả cho bị hại nên không buộc bị cáo nộp lại số tiền này.

[5]. Vật chứng của vụ án: Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax, màu xanh, dung lượng 64 Gb,số Imei1: 353915107197073, số Imei2: 353915107197065 bị cáo trộm của chị H, hiện nay chị H đã nhận lại tài sản.

Đối với 01 USB chứa dữ liệu trích xuất từ Camera tại cửa hàng vải C (là chứng cứ của vụ án) cần lưu theo hồ sơ vụ án.

[6] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo khai sau khi lấy trộm được chiếc điện thoại của chị H, bị cáo đã đem bán cho một người có tên N ở gần khu vực đường tròn Chùa Hang, thuộc phường H, TP N, tuy nhiên bị cáo không rõ nhân thân lai lịch của N. Khi bán và chuộc điện thoại, bị cáo gọi điện thoại cho N bằng sim rác, số điện thoại của N được bị cáo ghi vào một mẩu giấy, sau đó bị cáo đã vứt bỏ mẩu giấy và cả sim điện thoại này nên bị cáo không còn lưu số điện thoại của N. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người tên N này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

Đối với hành vi của chị H2, bị cáo nhờ chị H2 đem trả chiếc điện thoại, chị H2 không biết bị cáo trộm cắp tài sản khi nào, chị chỉ được bị cáo nhờ mang trả lại cho chị H, chị H2 không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N không xem xét đối với chị H2 là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình S phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Đình S 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Lưu theo hồ sơ vụ án 01 USB chứa dữ liệu trích xuất từ Camera tại cửa hàng vải C.

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Nguyễn Đình S phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 75/2022/HS-ST

Số hiệu:75/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;