TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 75/2021/HSPT NGÀY 05/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2021/HSPT ngày 10/5/2021 đối với bị cáo Trương Quyết T. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2021/HSST ngày 01/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện B.
Bị cáo có kháng cáo:
Bị cáo Trương Quyết T, sinh năm 1999; tại huyện P, thành phố cần Tho; Noi cư trú: ấp A, xã N, huyện P, thành phố cần Tho; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Truong Văn P và bà Trần Thị C; vợ: Nguyễn Thị N; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2020 đến ngày 16/12/2020 được tại ngoại cho đến nay, bị cáo vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ ngày 19/10/2020, Trương Quyết T điều khiển xe mô tô biển số 65G1-332.48 đến chơi nhà người cô tên Trương Thị P, sinh năm 1968 ở tổ 04, ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long. Khi đến thì chị P không có nhà. Do T thường đến chơi nên biết chị P để chìa khóa cửa nhà trong cái tủ nhựa đựng quần áo bên hông nhà nên T đi lại tủ và lấy chìa khóa mở cửa vào nhà và nằm võng đợi chị P về. Lúc này, T nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của chị P để trả nợ và tiêu xài cá nhân.
T biết chị P để tiền và vàng trong tủ ly ở nhà trước, T đi lại tủ ly rồi dùng tay đẩy mạnh vào trong gốc bên phải phía dưới của cái tủ làm ổ khóa cửa tủ bị bung ra. T dùng tay mở cửa tủ và nhìn thấy bên trong ngăn tủ có 01 cọc tiền 17.500.000 đồng liền lấy bỏ túi quần rồi tiếp tục mở 01 cái túi xách màu đen phát hiện bên trong có 01 cái hộp giấy màu trắng - tím (loại hộp đựng vỏ kem), T cầm cái hộp lên và nghĩ bên trong có vàng nên lấy bỏ vào túi quần và đóng cửa tủ lại. Sau đó, T đi ra ngoài đóng cửa nhà chị P lại và bỏ cái hộp giấy vào cốp xe rồi chạy về nhà. Trên đường về, T ghé vào vườn chanh của anh Võ V (là chồng của chị P) nói chuyện một lúc thì T bỏ về. Khi chạy xe về được một đoạn T dừng xe lại kiểm tra cái hộp giấy vừa lấy trộm thì bên trong có: 01 chiếc lắc vàng 23k, kiểu khoen lật có móc khóa chữ “S” trọng lượng 10 chỉ; 01 chiếc lắc vàng 23k, loại mặc vuông đai lật 4 kè trọng lượng 10 chỉ; 01 sợi dây chuyền vàng 23k, kiểu dây xích có móc khóa chữ “S” trọng lượng 04 chỉ và 01 mặt dây chuyền vàng 23k kiểu bông mai trọng lượng 01 chỉ; 01 sợi dây chuyền vàng 17k, kiểu bông lúa có móc khóa bớp có trọng lượng 10 chỉ 02 phân 05 ly và 01 mặt dây chuyền bằng cẩm thạch màu xanh có cẩn vàng 17k xung quanh có trọng lượng 08 phân; 01 chiếc nhẫn vàng 23k, kiểu nam có mặt vuông, trên mặt có chữ hán trọng lượng 04 chỉ, 08 phân, 02 ly; 01 chiếc nhẫn đúc vàng 23k, kiểu nữ 3 hàng trọng lượng 03 chỉ.
T lấy số vàng cất vào trong cái áo mưa, rồi để áo mưa trong cốp xe. T ném bỏ cái hộp giấy xuống kênh, rồi quay xe lại đến vườn chanh anh V để cùng anh V về nhả chơi. Khi về nhà anh V được khoảng 10 phút thì T bỏ về nhà T lấy toàn bộ số vàng trộm được ra sau vườn kiểm tra lại. Sau đó, T đem đến tiệm vàng K 2 ở số 55 đường N, phường A, quận N, thành phố cần Thơ bán cho anh Nguyễn Văn C: 01 chiếc nhẫn vàng 23k, kiểu nam có mặt vuông, trên mặt có chữ hán trọng lượng 04 chỉ, 08 phân, 02 ly được số tiền 24.389.000 đồng. T tiếp tục đến tiệm vàng Kim Tín-Huỳnh Nhiên ở số 14-16 đường M, phường A, quận N, thành phố cần Thơ bán 01 chiếc lắc vàng 23k, loại mặt vuông đai lật 4 kè trọng lượng 10 chỉ; 01 chiếc nhẫn đúc vàng 23k, kiểu nữ 3 hàng trọng lượng 03 chỉ được số tiền 59.800.000 đồng. T lấy tổng số tiền bán vàng được là 84.000.000 đồng đem trả nợ cho anh V (nhưng T không biết rõ, họ, tên và địa chỉ của V). số vàng còn lại, T đem cất giấu trong tủ áo sau nhà. Đến tối ngày 19/10/2020, chị P đi làm về nhà thì phát hiện số tiền và vàng trong tủ bị mất trộm nên đi đến Công an xã T, huyện B trình báo sự việc.
Vào sáng ngày 20/10/2020 T ra chợ P thì gặp anh H (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) đòi tiền T thiếu nợ trước đó. T lấy số tiền 17.500.000 đồng lấy trộm của chị P và bù thêm 500.000 đồng tiền cá nhân trả cho anh H. Đến chiều ngày 20/10/2020, chị P và gia đình nghi ngờ T là người lấy trộm tài sản nên chị P đã đến nhả anh Phạm Văn G (là em ruột của chị P) chơi và kể lại sự việc bị mất trộm cho anh G nghe. Lúc này, anh G mới mời gia đình T đến nhà gặp chị P để hỏi T có lấy trộm tài sản của chị không thì T không thừa nhận rồi bỏ về nhà. Đến khi bà Trần Thị C là mẹ ruột của T vận động T thừa nhận đã lấy trộm tiền và vàng của chị P thì T thừa nhận. Đến sáng ngày 21/10/2020, T đã đến Công an xã T, huyện B đầu thú về hành vi của mình.
Vật chứng thu giữ được là:
- 01 chiếc lắc vàng 23k, kiểu khoen lật có móc khóa chữ “S” trọng lượng 10 chỉ; 01 chiếc lắc vàng 23k, loại mặc vuông đai lật 4 kè trọng lượng 10 chỉ;
- 01 sợi dây chuyền vàng 23k, kiểu dây xích có móc khóa chữ “S” trọng lượng 04 chỉ và 01 mặt dây chuyền vàng 23k kiểu bông mai trọng lượng 01 chỉ;
- 01 sợi dây chuyền vàng 17k, kiểu bông lúa có móc khóa bớp có trọng lượng 10 chỉ 02 phân 05 ly và 01 mặt dây chuyền bằng cẩm thạch màu xanh có cẩn vàng 17k xung quanh có trọng lượng 08 phân.
Căn cứ vào kết luận định giá tài sản số 37 ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B tiến hành định giá và kết luận: 01 chiếc lắc vàng 23k, kiểu khoen lật có móc khóa chữ “S” trọng lượng 10 chỉ; 01 chiếc lắc vàng 23k, loại mặt vuông đai lật 4 kè trọng lượng 10 chỉ; 01 sợi dây chuyền vàng 23k, kiểu dây xích có móc khóa chữ “S” trọng lượng 04 chỉ và 01 mặt dây chuyền vàng 23k kiểu bông mai trọng lượng 01 chỉ; 01 sợi dây chuyền vàng 17k, kiểu bông lúa có móc khóa bớp có trọng lượng 10 chỉ 02 phân 05 ly và 01 mặt dây chuyền bằng cẩm thạch màu xanh có cẩn vàng 17k xung quanh có trọng lượng 08 phân; 01 chiếc nhẫn vàng 23k, kiểu nam có mặt vuông, trên mặt có chữ hán trọng lượng 04 chỉ, 08 phân, 02 ly; 01 chiếc nhẫn đúc vàng 23k, kiểu nữ 3 hàng trọng lượng 03 chỉ, có tổng giá trị chung là 216.170.200 đồng.
Qua điều tra Trương Quyết T đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra giải quyết được như sau:
- Đối với anh Nguyễn Văn C là nhân viên tiệm vàng K 2 có mua của T01 chiếc nhẫn vàng 23k, kiểu nam có mặt vuông, trên mặt có chữ hán trọng lượng 04 chỉ, 08 phân, 02 ly nhưng khi mua vàng anh C không biết số vàng trên là do T phạm tội mà có. Sau khi mua vàng, tiệm vàng đã tái chế vàng lại nên không có cơ sở để thu hồi. Hành vi của anh C chưa đủ căn cứ để xử lý.
- Đối với 01 chiếc lắc vàng 23k, loại mặt vuông đai lật 4 kè trọng lượng 10 chỉ; 01 chiếc nhẫn đúc vàng 23k, kiểu nữ 3 hàng trọng lượng 03 chỉ T đã bán cho tiệm vàng K -H nhưng chủ tiệm vàng K -H không thừa nhận có mua vàng của T nên không có cơ sở để thu hồi và xử lý.
- Đối với người tên V và H mà T đã lấy tiền trộm được để trả nợ thì T khai không rõ họ, tên và địa chỉ ở đâu nên Cơ quan cảnh sát điều tra chưa mời làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau.
- Đối với cái hộp giấy màu trắng-tím (loại hộp đựng vỏ kem) bên trong có đựng vàng mà T lấy trộm, sau đó T đã ném bỏ xuống kênh, Cơ quan điều tra có tìm kiếm, nhưng không tìm được.
- Đối với vật chứng thu giữ: 01 chiếc lắc vàng 23k, kiểu khoen lật có móc khóa chữ “S” trọng lượng 10 chỉ; 01 chiếc lắc vàng 23k, loại mặt vuông đai lật 4 kè trọng lượng 10 chỉ; 01 sợi dây chuyền vàng 23k, kiểu dây xích có móc khóa chữ “S” trọng lượng 04 chỉ và 01 mặt dây chuyền vàng 23k kiểu bông mai trọng lượng 01 chỉ; 01 sợi dây chuyền vàng 17k, kiểu bông lúa có móc khóa bớp có trọng lượng 10 chỉ 02 phân 05 ly và 01 mặt dây chuyền bằng cẩm thạch màu xanh có cẩn vàng 17k xung quanh 01 có trọng lượng 08 phân. Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại Trương Thị P xong.
Về trách nhiệm dân sự:
- Đối với bị hại P có yêu cầu T bồi thường giá trị 01 chiếc nhẫn vàng 23k, kiểu nam có mặt vuông, trên mặt có chữ hán trọng lượng 04 chỉ, 08 phân, 02 ly và 01 chiếc lắc vàng 23k, loại mặt vuông đai lật 4 kè trọng lượng 10 chỉ; 01 chiếc nhẫn đúc vàng 23k, kiểu nữ 3 hàng trọng lượng 03 chỉ và số tiền 17.500.000 đồng tổng cộng là 111.233.200 đồng. T đã tác động gia đình và được bà Trần Thị C là mẹ ruột T đứng ra bồi thường thay cho chị P. Sau khi nhận tiền, vàng xong chị không có yêu cầu T phải bồi thường thêm và có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho T.
- Đối với bà Trần Thị C đứng ra bồi thường thay cho T, nay bà không yêu cầu T phải trả lại số vàng và tiền trên.
Tại bản án sơ thẩm số: 17/2021/HSST ngày 01/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện B đã quyết định tuyên bố bị cáo Trương Quyết T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 173; Điều 38, Điều 54; điểm b, S khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Trương Quyết T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án và được khấu trừ thời gian bị tạm giam từ ngày 11/11/2020 đến ngày 16/12/2020.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo..
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về bồi thường thiệt hại, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 12/4/2021, bị cáo Trương Quyết T có đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T vắng mặt, bị cáo có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm (đơn đề ngày 15/9/2021). Nội dung trong đơn bị cáo xin Hội đồng xét xử xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Kiểm sát viên nêu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Xét nội dung đơn xin vắng mặt của bị cáo T tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm C khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị cáo.
- Về nội dung: Sau khi phân tích hành vi phạm tội, nguyên nhân, hậu quả mà bị cáo đã gây ra; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
Đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; Điều 38, Điều 54; điểm b, S khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Quyết T mức án 02 năm 06 tháng tù.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa nên không có lời nói sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong hạn luật định bị cáo Trương Quyết T kháng cáo đối với bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt, nên được đưa ra xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và trong đơn bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt.
Xét nội dung đơn xin vắng mặt của bị cáo T tại phiên tòa phúc thẩm là có cơ sở chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ điểm C khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.
Trên cơ sở từ các lời khai của bị cáo T tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó, có đủ căn cứ xác định khoảng 09 giờ ngày 19/10/2020 tại tổ 04, ấp A, xã T, huyện B, tinh Vĩnh Long bị cáo T đã có hành vi lén lút lấy trộm tài sản của vợ chồng chị Trương Thị P gồm: vàng nữ trang và tiền mặt. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp là: 233.670.200 đồng. Do đó, cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Trương Quyết T phạm vào tội “Trộm cắp tài sản ” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, đồng thời ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo là thanh niên, có sức khỏe và nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng vì động cơ vụ lợi cho quyền lợi cá nhân lại lười lao động dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường tài sản của người khác và xem thường sự trừng phạt của pháp luật. Vì vậy, đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm về hành vi của bị cáo, nhằm giáo dục riêng bị cáo trở thành công dân hữu ích và phòng ngừa chung trong xã hội.
Xét án sơ thẩm khi quyết định hình phạt đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức án đối với bị cáo là không nặng, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên xét thấy kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm C khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Quyết T. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 17/2021/HSST ngày 01/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện B Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 173; điểm b, S khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Trương Quyết T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án và được khấu trừ thời gian bị tạm giam từ ngày 11/11/2020 đến ngày 16/12/2020.
2. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trương Quyết T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 75/2021/HSPT
Số hiệu: | 75/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về