Bản án về tội trộm cắp tài sản số 74/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG - TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 74/2022/HS-ST NGÀY 20/10/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 10 năm 2022 tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân huyện Bình Giang và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Bình Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 75/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2022 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa số 70/TB-TA ngày 12 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

PHAN HỮU T, sinh năm 1993.

Nơi sinh: Xã ĐQ, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương Nơi cư trú: Thôn ĐT, xã ĐQ, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12.

Con ông Phan Văn L, sinh năm 1966 và bà Vũ Thị T (đã chết). Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án: Tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 57/2015/HS-ST ngày 27/8/2015, TAND huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. T chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 23/3/2017.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Gia Lộc trong vụ án khác.

Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần.

* Tại điểm cầu trung tâm:

- Bị hại: Chùa VB – Hải Dương.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Đoàn Thị H (Pháp danh Thích Diệu H).

Địa chỉ: Thôn C, xã LX, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.

Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người chứng kiến: Chị Châu Tiểu N, sinh năm 2001 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 21/4/2022, Phan Hữu T điều khiển xe mô tô BKS 60C1-X (mượn của bố đẻ là ông Phan Văn L) đi từ thành phố Hải Dương đến huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, mục đích tìm ngôi chùa nào hoặc nhà dân nào có tài sản sơ hở thì trộm cắp. T mang theo 01 kìm cộng lực dài 90cm có tay cầm bọc nhựa màu vàng cam, 01 thanh xà cầy bằng sắt dài 64cm một đầu nhọn, một đầu móc dạng càng cua dùng để nhổ đinh làm công cụ để C phá khóa cửa và 01 đèn pin.

Khoảng 02 giờ cùng ngày, T đi đến chùa VB thuộc thôn C, xã LX, quan sát thấy nhà chùa khóa cổng, xung quanh là khu đất trống, vắng người qua lại nên nảy sinh ý định vào trong trộm cắp tài sản. T dựng xe mô tô trước cổng UBND xã LX ở đối diện cổng chùa, cầm theo kìm cộng lực, thanh xà cầy và đèn pin trèo qua tường bao vào trong chùa. Khi vào bên trong, T đi đến gian chính điện dùng kìm cộng lực cắt 02 khóa cửa phụ bên trái rồi đi vào trong điện tam bảo để lục tìm tài sản. T phát hiện tại điện tam bảo có 01 hòm công đức bằng tôn nên T 1 tay cầm đèn pin để soi, 1 tay dùng thanh xà cầy C phá khóa hòm công đức làm tai khóa hòm bị gẫy và nắp hòm bị cong vênh. T thò tay vào trong lấy được tổng số tiền là 7.000.000đ (gồm các tờ tiền có mệnh giá từ 1.000đ đến 500.000đ) ở trong hòm công đức. Sau khi lấy được tiền T cất giấu vào trong túi quần đang mặc trên người rồi đi ra phía cửa phụ bên phải, dùng tay giật bung then và cH cửa đi ra ngoài trèo qua bờ tường bao đi về nhà. Trên đường đi, T làm mất đèn pin, còn kìm cộng lực và thanh xà cầy cất giấu tại khu vực nghĩa trang khu Tứ Thông, phường Tứ Minh, thành phố Hải Dương.

Ngày 22/4/2022, bà Đoàn Thị H, sinh năm 1972 là trụ trì chùa VB có đơn trình báo về việc mất tài sản. Đến ngày 05/6/2022, Phan Hữu T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lộc bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, quản lý của T xe mô tô BKS 60C1-X. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lộc đã làm rõ ngoài các hành vi nêu trên, T còn dùng kìm cộng lực và thanh xà cầy đã cất giấu tại khu vực nghĩa trang khu Tứ Thông thực hiện nhiều vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Gia Lộc, đến ngày 18/6/2022 đã thu giữ các vật chứng là kìm cộng lực và thanh xà cầy T sử dụng phá khóa, hòm công đức để trộm cắp tài sản tại chùa VB, xã LX, huyện Bình Giang.

Kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐG ngày 01/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND huyện Bình Giang kết luận: Tổng giá trị tài sản chùa VB bị thiệt hại gồm 02 ổ khóa Việt Tiệp là 25.000đ; 01 tai cài khóa bằng kim loại là 5.000đ; 01 bộ then cH cửa bằng gỗ của chùa VB là 10.000đ. Tổng số là 40.000đ.

Vật chứng của vụ án: 02 khóa Việt Tiệp bằng kim loại, 01 tai cài khóa, 01 bộ then cH cửa bằng gỗ gồm then cài và tai cài then, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Giang để xử lý trong giai đoạn xét xử và thi hành án.

Đối với kìm cộng lực, thanh xà cầy, xe mô tô BKS 60C1-X hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lộc quản lý ở vụ án khác; đèn pin T đã làm mất không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Đoàn Thị H đại diện chùa VB không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền đã chiếm đoạt (nhà chùa cho bị cáo) và bồi thường thiệt hại về tài sản bị hư hỏng.

Tại bản cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 05/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Phan Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phan Hữu T thừa nhận hành vi bị cáo thực hiện như Cáo trạng đã nêu, nhất trí với Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND huyện Bình Giang và công nhận việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

+ Xử phạt bị cáo Phan Hữu T từ 11 tháng đến 14 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 173 BLHS, đề nghị phạt tiền bị cáo số tiền từ 5.000.000đ đến 10.000.000đ sung quỹ nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự: Không phải giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu, tiêu hủy 02 khóa Việt Tiệp bằng kim loại, 01 tai cài khóa, 01 bộ then cH cửa bằng gỗ gồm then cài và tai cài then.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang; Điều tra viên; Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo Phan Hữu T:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, người chứng kiến; phù hợp với biên bản kèm theo sơ đồ hiện trường, biên bản giải trình hình ảnh camera, kết luận định giá tài sản, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ những chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 02 giờ ngày 21/4/2022, tại chùa VB thuộc thôn C, xã LX, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, lợi dụng đêm tối và sơ hở của chủ sở hữu, Phan Hữu T đã lén lút dùng kìm cộng lực, thanh xà cầy, đèn pin phá khóa cửa, C phá khóa hòm công đức chiếm đoạt số tiền 7.000.000đ của chùa VB. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm mục đích vụ lợi cho bản thân là vi phạm pháp luật và gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ. Tài sản bị cáo chiếm đoạt của chùa VB là 7.000.000đ nên có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo từng bị kết án về tội Trộm cắp tài sản năm 2015 (đã được xóa án tích).

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và bà Đoàn Thị H (pháp danh Thích Diệu H) là Trụ trì chùa VB có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo từng bị kết án về hành vi Trộm cắp tài sản và hiện đang bị truy tố về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại huyện Gia Lộc do vậy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đảm bảo tác dụng giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bà Đoàn Thị H (pháp danh Thích Diệu H) không yêu cầu bị cáo Phan Hữu T phải trả lại cho chùa số tiền đã chiếm đoạt là 7.000.000đ và tự nguyện cho bị cáo số tiền nêu trên đồng thời cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho chùa các thiệt hại do bị cáo làm hư hỏng tài sản khi thực hiện hành vi trộm cắp do đó về trách nhiệm dân sự trong vụ án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 khóa kim loại nhãn Việt Tiệp, kích thước (6,5 x 4,8 x 1,9)cm, màu trắng, bị cắt đứt móc khóa; 01 khóa kim loại nhãn Việt Tiệp, kích thước (6,3 x 4,3 x 2,4)cm, màu trắng, bị cắt đứt móc khóa;

01 tai cài khóa bằng kim loại; 01 bộ then cH cửa làm bằng gỗ gồm then cài và tai cài then là vật đã hư hỏng không còn giá trị sử dụng, đại diện chùa VB không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu, tiêu hủy đối với vật chứng nêu trên.

Đối với kìm cộng lực, thanh xà cầy, xe mô tô BKS 60C1-X hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lộc quản lý ở vụ án khác; đèn pin T đã làm mất không thu hồi được nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9] Về các vấn đề khác: Ông Phan Văn L cho bị cáo T mượn xe mô tô nhưng không biết bị cáo sử dụng để phạm tội nên không xem xét xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phan Hữu T 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

+ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 khóa kim loại nhãn Việt Tiệp, kích thước (6,5 x 4,8 x 1,9)cm, màu trắng, đã qua sử dụng và bị cắt đứt móc khóa; 01 khóa kim loại nhãn Việt Tiệp, kích thước (6,3 x 4,3 x 2,4)cm, màu trắng, đã qua sử dụng và bị cắt đứt móc khóa; 01 tai cài khóa bằng kim loại; 01 bộ then cH cửa làm bằng gỗ gồm then cài và tai cài then.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Giang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang ngày 17/10/2022).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Phan Hữu T phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được Nêm yết./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 74/2022/HS-ST

Số hiệu:74/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;