TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG T, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 74/2022/HS-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 73/2022/HSST, ngày 14 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2022/QĐXXST- HS, ngày 05 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vàng Ky L - Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh năm:
1996; Sinh tại: xã P Ủ, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu.
Nơi cư trú: Bản Tá B, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: La Hủ; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Vàng Xạ Ch (đã chết); Con bà: Vàng Mò X (đã chết); gia đình bị cáo có 04 chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Bị cáo có vợ: Lỳ Pó L - Sinh năm: 1989; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2021;
Tiền án, tiền sự: không; Về nhân thân bị cáo: Ngày 28/9/2013 bị cáo Vàng Ky L bị Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai Châu xét xử, xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự. Ngày 11/7/2014 bị cáo chấp hành xong hình phạt, hiện đã được xóa án tích). Bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/02/2022 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ - Công an huyện Mường T, tỉnh Lai Châu - Có mặt * Bị hại: Bà Chu Xá N – Sinh năm: 1961.
Trú tại: Bản Tá B, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt có lý do.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ly Gạ H - Sinh năm: 1993.
Trú tại: Bản Tá B, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu . Vắng mặt có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 2018, Vàng Ky L và vợ là Lỳ Pó L chuyển từ bản Nậm P, xã Mường Tè sang sinh sống cùng gia đình bên vợ ở tại bản Tá B, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Trong quá trình sinh sống, L biết mẹ vợ là bà Chu Xá N, sinh năm:
1961 cùng trú tại bản Tá B có nuôi một con dê đực, có lông màu đen, ở bụng có khoang lông màu trắng thường chăn thả ở trên nương nên L đã nảy sinh ý định trộm cắp con dê nhằm bán lấy tiền tiêu sài nhưng vẫn chưa thực hiện được vì bà N thường ở lán nương. Đến khoảng đầu tháng 9 năm 2021, Vàng Ky L có vay số tiền 1.300.000 đồng của anh Ly Gạ H - Sinh năm: 1993 cùng trú tại bản Tá B, xã Tá B, L có nói với anh H vài hôm nữa sẽ bắt con dê của L về bán cho anh H. Đến khoảng 05 giờ ngày 29/9/2021 lợi dụng lúc bà Chu Xá N đang ngủ say, L đã cởi dây buộc con dê rồi dắt con dê đi về trung tâm bản Tá B để bán cho Ly Gạ H. Do trời đã sáng, L không dám dắt con dê đến nhà Ly Gạ H mà buộc dê ở gần Trường THCS xã Tá B rồi L gọi điện thoại cho H đến để lấy con dê. Trên đường đi L và H thống nhất số tiền bán được từ tiền bán con dê sẽ được trừ vào số tiền 1.300.000 đồng mà L đã vay của H trước đó và ngoài ra H phải làm cho L một ngôi nhà bằng bạt để ở trị giá khoảng 2.500.000 đồng. Sau khi bán con dê đã trộm cắp được cho H thì L đi bộ về lán nương ngủ đến 10 giờ rồi đi bộ về nhà mẹ vợ ở bản Tá B. Khi nghe mẹ vợ là bà Chu Xá N nói đã bị mất trộm con dê vì sợ bị phát hiện nên L đã đi bộ sang nhà H và xin được của H số tiền 200.000 đồng rồi bỏ trốn khỏi nơi cư trú. Đến ngày 24/10/2021 khi L quay về bản Tá B thì bị Cơ quan Công an xã Tá B triệu tập lên làm việc. Tại Công an xã, L đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình.
Qua định giá tài sản, tại bản kết luận định giá tài sản số: 39/KL-HĐĐGTS ngày 01/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Mường T đã kết luân: 01 con dê đực còn sống có trọng lượng 44 kg có lông màu đen, ở phần bụng con dê có khoang lông màu trắng có trị giá là 5.720.000 đồng.
Tại Cáo trạng số: 31/CT- VKS - MT, ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T đã truy tố bị cáo Vàng Ky L về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vàng Ky L phạm tội " Trộm cắp tài sản ”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng Ky L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Về hình phạt bổ sung đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn. Về vật chứng: Chấp nhận quyết định về việc xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Tè trả 01 con dê đực còn sống có trọng lượng 44 kg có lông màu đen, ở phần bụng con dê có khoang lông màu trắng cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Chu Xá N, trú tại: Bản Tá B, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu là phù hợp, đúng quy định của pháp luật. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Trong quá trình điều tra người bị hại đã nhận lại con dê đực còn sống có trọng lượng 44 kg có lông màu đen, ở phần bụng con dê có khoang lông màu trắng và không có yêu cầu bồi thường gì nên không đề cập xử lý. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt, không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường về trách nhiệm dân sự nên không đề cập xử lý. Về án phí: Bị cáo Vàng Ky L là người dân tộc thiểu số, sống ở khu vực có điều kiện KT-XH khó khăn, không có thu nhập ổn định nên đề nghị HĐXX miễn 200.000 đồng án phí HSST cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo Vàng Kỳ L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình bị cáo nhất trí nội dung bản cáo trạng đã truy tố; bị cáo nhất trí với luận tội và đề nghị của kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận và không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo xin hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp của khung hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Mường T, tỉnh Lai Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai Châu và Điều tra viên, Kiểm sát viên được phân công điều tra, truy tố, trong quá trình thực hiện đã tuân thủ đúng theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Bị cáo Vàng Ky L, sinh năm 1996, nơi trú: Bản Tá B, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Lợi dụng sơ hở của mẹ vợ là bà Chu Xá N trong việc chăn thả gia súc, Vàng Ky L đã trộm cắp 01 con dê đực còn sống của bà Chu Xá N có trọng lượng 44 kg có lông màu đen, ở phần bụng con dê có khoang lông màu trắng có trị giá là 5.720.000 đồng. Như vậy, khẳng định hành vi của Vàng Ky L đã đủ yếu tố cấu thành tội" Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Cáo trạng số: 31/CT-VKS- MT, ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T truy tố đối với bị cáo Vàng Ky L về tội "Trộm cắp tài sản' là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” [3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, tài sản của người khác là bất khả xâm phạm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào quyền sở hữu tài sản của người khác, quyền sở hữu tài sản của người khác là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Về nhân thân, bị cáo Vàng Ky L có nhân thân xấu: Ngày 28/9/2013 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai Châu xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự đến ngày 11/7/2014 bị cáo L chấp hành xong hình phạt tù, sau khi trở về địa phương bị cáo không tự cải tạo mình trở thành người lương thiện, bị cáo bị nghiện chất ma túy.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vàng Ky L luôn thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên cần được áp dụng cho bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, lời khai bị cáo tại phiên tòa, thấy rằng bị cáo Vàng Ky L làm nghề trồng trọt, không có tài sản, thu nhập gì lớn, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra người bị hại đã nhận lại con dê đực còn sống có trọng lượng 44 kg có lông màu đen, ở phần bụng con dê có khoang lông màu trắng và không có yêu cầu bồi thường gì nên không đề cập xử lý trong vụ này. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt có ý kiến đề nghị không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường về trách nhiệm dân sự, nên không đề cập xử lý.
[ 7 ] Về xử lý vật chứng của vụ án: Chấp nhận quyết định về việc xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường T trả 01 con dê đực còn sống có trọng lượng 44 kg có lông màu đen, ở phần bụng con dê có khoang lông màu trắng cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Chu Xá N, trú tại: Bản Tá B, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
Đối với anh Ly Gạ H: Khi mua con dê của Vàng Ky L, anh H không biết đó là tài sản do L trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý là phù hợp.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về án phí, lệ phí. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng Ky Lòng vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, không có tài sản cũng như không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ cần phải chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Vàng Ky L phạm tội "Trộm cắp tài sản". Xử phạt bị cáo Vàng Ky L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 04/02/2022.
2. Về án phí: Miễn án phí HSST số tiền 200.000 đồng cho bị cáo Vàng Ky L.
Án xử công khai, có mặt bị cáo. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai, lên Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 74/2022/HS-ST
Số hiệu: | 74/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về