Bản án về tội trộm cắp tài sản số 74/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 04/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 04 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Trương Thị Ngọc T; sinh năm: 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: C đường L, Phường K, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: B đường N, phường N, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trương Anh H và bà: Ngô Thị T; chồng: Nguyễn Tuấn T và 03 con (lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2019, bị cáo không trực tiếp nuôi con); tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt giữ ngày: 19/6/2021.

(Bị cáo có mặt).

- Bị hại:

Bà Đào Thị Bích T – Sinh năm: 1984 (vắng mặt).

Địa chỉ: A đường B, Phường K, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 11/11/2019, Trương Thị Ngọc T đến gội đầu tại tiệm tóc Thảo My – địa chỉ: 436B/106/1A đường 3/2, Phường 12, Quận 10. Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lúc đợi nhân viên phục vụ, T nhìn thấy chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu bạc của chủ tiệm là bà Đào Thị Bích T để trên kệ cạnh chỗ T ngồi, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt; lợi dụng lúc bà T không để ý, T lén lút dùng tay phải lấy điện thoại di động chuyền sang tay trái giấu dưới chiếc điện thoại di động màu đen của T đang cầm rồi bỏ đi. Sau khi phát hiện bị mất điện thoại, bà T kiểm tra camera thì biết T đã chiếm đoạt tài sản của mình, nên đến Công an Phường 12, Quận 10 trình báo vụ việc. Vụ việc được Công an Phường 12 lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, qua định giá có giá trị là 9.000.000 đồng.

Ngày 12/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 khởi tố vụ án hình sự đến ngày 12/3/2020 ra quyết định tạm đình chỉ điều tra và ra Quyết định truy tìm. Ngày 23/12/2020, Công an Phường 3, Quận 3 phát hiện Trương Thị Ngọc T là đối tượng đang bị truy tìm nên tạm giữ và bàn giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10. Ngày 24/12/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 quyết định phục hồi điều tra vụ án và ngày 22/01/2021 quyết định khởi tố điều tra đối với Trương Thị Ngọc T. Do T bỏ trốn, nên ngày 24/02/2021 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự, tạm đình chỉ điều tra bị can và ra quyết định truy nã đối với T; đến ngày 19/6/2021, T bị bắt giữ theo quyết định truy nã và cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định phục hồi điều tra đối với Trương Thị Ngọc T về hành vi “Trộm cắp tài sản” Quá trình điều tra, T khai nhận hành vi như trên; sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại di động, T đem bán cho một tiệm điện thoại trên đường Trần Văn Đang (không còn nhớ địa chỉ) với giá 3.200.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết số tiền này.

Vật chứng vụ án:

Đối với: 01 đĩa DVD chứa dữ liệu camera ghi nhận hành vi “Trộm cắp tài sản” của Trương Thị Ngọc T (lưu và hồ sơ vụ án) Về trách nhiệm dân sự: Bà Đào Thị Bích T yêu cầu T bồi thường số tiền 9.000.000 đồng đối với chiếc điện thoại đi động hiệu Iphone 8 đã bị chiếm đoạt, không thu hồi lại được.

Tại Cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 31 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Trương Thị Ngọc T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng) của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Trương Thị Ngọc T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về các biện pháp tư pháp khác (trách nhiệm dân sự): Buộc bị cáo bồi thường cho bị hại khoản thiệt hại theo yêu cầu của bị hại.

- Ý kiến của bị cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình; qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, nội dung ghi hình camera, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Trương Thị Ngọc T đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại với giá trị là 9.000.000 đồng, nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo (nhưng chưa thật sự ăn năn hối cải thể hiện qua quá trình điều tra bị cáo đã bỏ trốn và bị truy nã, đến nay vẫn chưa khắc phục bồi thường thiệt hại cho bị hại), phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo; đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung do mới bị kết án lần đầu.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản bị chiếm đoạt là chiếc điện thoại trị giá 9.000.000 đồng và không thu hồi được, bị hại Đào Thị Bích T yêu cầu bị cáo bồi thường khoản tiền 9.000.000 đồng; xét yêu cầu của bị hại là phù hợp với quy định của pháp luật;

vậy căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị cáo Trương Thị Ngọc T bồi thường khoản tiền 9.000.000 đồng cho bà Đào Thị Bích T.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trương Thị Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trương Thị Ngọc T;

Xử phạt bị cáo Trương Thị Ngọc T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2021.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.

- Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015; buộc: Bị cáo Trương Thị Ngọc T bồi thường số tiền 9.000.000 (chín triệu) đồng cho bà Đào Thị Bích T.

Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 450.000 (bốn trăm năm mươi ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 74/2021/HS-ST

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;