Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 73/2023/HS-ST NGÀY 15/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 12 năm 2023 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 71/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2023/QĐXXST-HS ngày 01/12/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L; sinh ngày 01 tháng 4 năm 1991; tại xã Y, huyện H, tỉnh T; nơi cư trú: Thôn N, xã Y, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị C; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/9/2023 đến ngày 20/9/2023 chuyển tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hà Trung cho đến nay; có mặt.

Bị hại: Anh Lê Hùng Th, sinh năm 1996.

Nơi cư trú: Tiểu khu 6, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Công an xã H, huyện H, tỉnh T.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Nhật T - Trưởng công an xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ, ngày 16/9/2023, Nguyễn Văn L đi bộ qua quán cafe Thủy Mộc thuộc tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H thì nhìn thấy 01 chiếc xe môtô Honda Future màu đỏ - đen, biển kiểm soát 36B1-X, đang dựng ở vỉa hè, trên xe vẫn còn cắm chìa khóa ở ổ khóa điện nên đã nảy sinh ý định trộm cắp để bán lấy tiền tiêu xài. L đi bộ qua quán cafe rồi ngồi ở vỉa hè nhà bên cạnh để quan sát. Thấy không có người trông coi, bảo vệ tài sản, L liền đi lại gần chiếc xe rồi dắt ra ngoài đường, bật chìa khóa điện đề nổ máy, điều khiển xe đi theo đường Quốc lộ 1A, hướng đi thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, đi vào đường Tỉnh lộ 508, sau đó rẽ vào khu vực đường đất hướng đi thôn Bình Lâm, xã Yến Sơn, huyện Hà Trung rồi rẽ vào một con ngõ vắng, không có người qua lại. Để tránh bị phát hiện, L tháo 02 chiếc gương chiếu hậu để lại bên vệ đường, khi tháo đến biển số xe thì thấy xe được gắn biển kiểm soát có nền màu xanh. Biết đây là xe của cơ quan nhà nước, mặt khác do không tìm được công cụ để tháo nên L để nguyên biển số xe rồi tiếp tục điều khiển xe môtô đi sang tỉnh Ninh Bình để tìm nơi tiêu thụ tài sản. L điều khiển chiếc xe đến 01 cửa hàng thu mua phế liệu của ông Lã Văn H, sinh năm 1957, trú tại số 1583 Q, phường N, TP. T, tỉnh N (chủ cửa hàng thu mua phế liệu) hỏi ông H để bán chiếc xe nhưng ông H không đồng ý mua. Sau đó, L tiếp tục điều khiển chiếc xe đi thẳng theo Quốc lộ 1A, hướng đi thành phố Ninh Bình tìm nơi để bán chiếc xe nhưng không tìm được. Biết khó bán được chiếc xe môtô nên L điều khiển chiếc xe rẽ vào một con đường vắng ở lề đường Quốc lộ 477 thuộc khu vực thôn 7, xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình tìm chỗ không có người qua lại, bỏ lại chiếc xe ở đây rồi đi bộ ra Quốc lộ 1A vẫy một chiếc xe tải (không xác định được biển kiểm soát) để đi nhờ về ngã tư thị xã B rồi đi bộ về nhà ngủ. Sáng ngày 17/9/2023, Nguyễn Văn L đến Công an huyện Hà Trung để đầu thú, khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe môtô Honda Future màu đỏ - đen; BKS 36B1- X, số khung: RLHJC7643LY014110; số máy: JC90E0056289, dung tích 124,9;

xe đã qua sử dụng, không có gương chiếu hậu hai bên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 41/KLĐG ngày 19/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự tỉnh Thanh Hóa, kết luận: 01 xe môtô Honda Future màu đỏ - đen, biển kiểm soát 36B1-X có giá trị thời điểm hiện tại là 22.000.000 đồng; giá trị 02 chiếc gương chiếu hậu xe môtô nhãn hiệu Honda số loại Future là 120.000 đồng. Tổng giá trị: 22.120.000 đồng.

Cáo trạng số 71/CT-VKS ngày 15/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Về bồi thường dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 120.000 đồng; về án phí: bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với vật chứng thu giữ được, đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 15 giờ, ngày 16/9/2023, tại khu vực vỉa hè trước quán cafe Thủy Mộc ở tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H, tỉnh T, Nguyễn Văn L lợi dụng sở hở của anh Lê Hùng Th trong việc quản lý, trông coi tài sản đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe môtô Honda Future màu đỏ - đen, biển kiểm soát 36B1-X, tổng giá trị tài sản tại thời điểm trộm cắp là 22.120.000 đồng (Hai mươi hai triệu một trăm hai mươi nghìn đồng). Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn huyện. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015; bị cáo đầu thú được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần áp dụng các tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Về bồi thường thiệt hại: Anh Lê Hùng Th yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại hai chiếc gương chiếu hậu trị giá 120.000 đồng. Yêu cầu của anh Th là có căn cứ và đúng quy định nên được chấp nhận.

[4]. Về vật chứng: Chiếc xe môtô Honda Future màu đỏ - đen; biển kiểm soát 36B1-X, số khung: RLHJC7643LY014110; số máy: JC90E0056289, dung tích 124,9; không có gương chiếu hậu hai bên, xe đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Công an xã H, huyện H, tỉnh Th, giao cho anh Lê Hùng Th quản lý, sử dụng nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung đã trả lại chiếc xe cho Đại diện Công an H, huyện H là đúng quy định.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 17/9/2023.

3. Về bồi thường: Căn cứ Điều 584, 585, 589, khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải bồi thường cho anh Lê Hùng Th số tiền 120.000đ (Một trăm hai mươi nghìn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và anh Lê Hùng Th có yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành án, bị cáo còn phải chịu thêm khoản tiền lãi trên số tiền và thời gian chưa thi hành án. Khoản tiền lãi chậm thi hành án được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2023/HS-ST

Số hiệu:73/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;