Bản án về tội trộm cắp tài sản số 70/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 04/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2021/TLST-HS, ngày 05 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2021/QĐXXST-HS, ngày 20 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Phạm Ngọc C (tên gọi khác: không), Sinh năm 1990; tại xã G.H, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: thôn Trung Chính, xã G.H, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Ngọc B và bà Trần Thị O; Có vợ Phạm Thị Hải Y1 và có 01 con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 16/7/2021 đến nay (có mặt).

- Bị hại: Công ty TNHH S. Việt Nam; Địa chỉ: Cụm công nghiệp G.Vn, xã G.Vn, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình; Người đại diện theo pháp luật: ông Park Dong Y – chức vụ: Tổng giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền: anh Trần Sử Nguyên Nam. (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

+ Ông Choi Won S1, sinh năm: 1981; Địa chỉ: Ký túc xá Công ty TNHH S. Việt Nam, cụm CN G.Vn, xã G.Vn, huyện G V, tỉnh Ninh Bình; Người đại diện theo ủy quyền: anh Trần Sử Nguyên N(vắng mặt).

+ Chị Phạm Thị H, sinh năm: 1981. Địa chỉ: Thôn Hoàng Quyển, xã G.H, huyện G V, tỉnh Ninh Bình. (vắng mặt)

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người phiên dịch: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1987. Địa chỉ: Phố T, thị trấn M, huyện G V, tỉnh Ninh Bình. (vắng mặt)

+ Người làm chứng: chị Nguyễn Thị N, anh Bùi Văn Ch. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 15/9/2019, Phạm Ngọc C là nhân viên phụ trách IT, chuyên phụ trách sửa chữa máy tính, quản lý hệ thống camera giám sát của công ty trách nhiệm hữu hạn S. Việt Nam, có địa chỉ ở cụm công nghiệp G.Vn, xã G.Vn, huyện G V. Do công ty S. thực hiện việc tinh giản biên chế nên đến ngày 28/5/2021, công ty đã cho C nghỉ việc. Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 13/6/2021, C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát 35N1-120.37 đi đến cửa hàng sửa chữa xe máy của anh Bùi Văn Chiêu, sinh năm 1995 ở thôn Phù Long, xã G.Vn, huyện G V để thay ắc quy xe mô tô. Lúc này, do thù tức vì bản thân đã làm việc lâu năm cho công ty nhưng vẫn bị công ty cho thôi việc nên C nảy sinh ý định đột nhập vào công ty S. nhằm mục đích phá hoại hệ thống mạng máy tính của công ty để công ty không sửa chữa được và phải nhờ hoặc thuê C sửa chữa, khắc phục. C sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A51, vỏ màu xanh truy cập vào hệ thống quản lý camera của công ty (do trước đây C làm nhân viên phụ trách IT chuyên sửa chữa máy tính và quản lý hệ thống camera nên C vẫn còn lưu tên đăng nhập và mật khẩu trong điện thoại) và cho dừng hệ thống camera của công ty trong khoảng thời gian từ 16 giờ đến 18 giờ cùng ngày, mục đích để khi C đột nhập vào C ty sẽ không bị camera giám sát ghi lại hình ảnh. C đi bộ vào trong Trạm y tế xã G.Vn (đối diện quán sửa xe) rồi đi ra phía tường rào bảo vệ phía sau trạm y tế (tiếp giáp với lán để xe của Công ty S.). Sau đó C trèo qua tường rào bảo vệ sang khuôn viên của công ty. C đi bộ lên tầng 2 khu nhà hành chính công ty S., rồi đi vào văn phòng tổng hợp là phòng mà C làm việc trước khi bị nghỉ việc. Khi vào phòng, C quan sát không có ai trong phòng và nhìn thấy có 01 chiếc túi xách đựng máy tính xách tay ở trên bàn làm việc của ông Choi Won S1, sinh năm 1981, Quốc tịch Hàn Quốc, hiện đang cư trú tại ký túc xá Công ty S. (ông Choi là Trưởng phòng thu mua của công ty). C lại gần mở túi xách ra xem thì thấy bên trong túi xách có 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Vostro 15, vỏ màu đen, Core i5, RAM DDR4 8GB, ổ cứng HDD 1TB. Lúc này, C nảy sinh ý định trộm cắp chiếc máy tính xách tay trên để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. C lấy chiếc máy tính ra khỏi túi xách, cầm máy ở tay phải ôm vào hông rồi đi bộ ra khu vực tường rào bảo vệ tiếp giáp với Trạm y tế xã G.Vn. C để chiếc máy tính trên bờ tường sau đó trèo sang Trạm y tế xã G.Vn để đi về. Khi C vừa trèo qua tường rào thì lúc này, anh Đinh Hồng Lưu, sinh năm 1982, trú tại thôn Phù Long, xã G.Vn, huyện G V, là nhân viên cơ điện của công ty S. đang đi bộ ở sân công ty nhìn thấy C vừa trèo tường nên đi đến và hỏi: “Đi đâu, sao lại vào công ty giờ này”, C trả lời: “Em đang bị đuổi đánh nên chạy vào đây”. Anh Lưu nói: “Nếu không có vấn đề gì thì đừng ở đây nữa” rồi tiếp tục đi làm. Sau khi anh Lưu đi, C cầm theo chiếc máy tính xách tay vừa trộm cắp được đi đến cửa hàng sửa chữa xe mô tô của anh Chiêu, lấy xe mô tô rồi để chiếc máy tính lên trên giá để hàng ở giữa xe mô tô rồi điều khiển xe đi về nhà. Về đến nhà, C xóa hết dữ liệu trong máy và cài lại hệ điều hành mới cho máy tính. Đến ngày 23/6/2021, C đưa chiếc máy tính trên cho chị Phạm Thị H, sinh năm 1981, trú tại thôn Hoàng Quyển, xã G.H, huyện G V để chị H dùng thử, nếu đồng ý mua thì sẽ trả cho C số tiền 6.000.000 đồng. Cùng ngày 23/6/2021, ông Choi Won S1 đi công tác về công ty S. làm việc thì phát hiện chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Vostro 15 mà công ty giao cho ông sử dụng để trên bàn làm việc đã bị kẻ gian trộm cắp nên trình báo cơ quan Công an.

Ngày 23/6/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện G V đã triệu tập làm việc đối với Phạm Ngọc C. Tại cơ quan điều tra, Phạm Ngọc C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G V đã thu giữ của Phạm Ngọc Công 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 35N1-120.37, số máy JF46E540122, số khung 4614EY840155; 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu LG, mã máy 14ZD970-MX10K; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A51, vỏ màu xanh (tình trạng máy không hoạt động được nên không kiểm tra nội dung bên trong);

01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR, số IMEI 357359092139715, bên trong lắp số thuê bao 0988254864, đều đã qua sử dụng. Thu giữ của chị Phạm Thị H 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Vostro 15, Core i5 – 8250U/4GD4/1T5/DVDRW/15.6HD/BT4/4C40WHR, vỏ màu đen, đã qua sử dụng.

Ngày 25/6/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện G V ra Yêu cầu định giá tài sản số 139 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện G V định giá 01 chiếc máy tính xách tay (laptop) nhãn hiệu Dell Vostro 15, Core i5 – 8250U/4GD4/1T5/DVDRW/15.6HD/BT4/4C40WHR, vỏ màu đen, đã qua sử dụng do C trộm cắp của công ty trách nhiệm hữu hạn S. Việt Nam ngày 13/6/2021.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 59/KLĐG-HĐ, ngày 08/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện G V kết luận: 01 chiếc máy tính xách tay (Laptop) nhãn hiệu Dell Vostro 15, Core i5 – 8250U/4GD4/1T5/DVDRW/15.6HD/BT4/4C40WHR, vỏ màu đen, đã qua sử dụng mà C trộm cắp của công ty trách nhiệm hữu hạn S. Việt Nam có giá trị là 10.860.000 đồng.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Phạm Ngọc C không có kiến nghị, ý kiến gì đối với kết luận định giá tài sản nêu trên.

Quá trình điều tra vụ án, Phạm Ngọc C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 68/CT- VKS-GV, ngày 05/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện G V truy tố Phạm Ngọc C ra trước Tòa án nhân dân huyện G V để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản ” theo khoản 1, khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G V, tỉnh Ninh Bình thực hành quyền công tố tại phiên tòa, phát biểu luận tội đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc C phạm tội “Trộm cắp tài sản” ; áp dụng: khoản 1 Điều 173 BLHS; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc C từ 09 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/11/2021. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã G.H và gia đình bị cáo giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách;

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Đại diện hợp pháp cho Bị hại đã có đơn trình bày, xác nhận bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác đối với bị cáo; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Phạm Ngọc C. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án không có yêu cầu gì đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Ngọc C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo Phạm Ngọc C xin mức hình phạt nhẹ và xin được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo Phạm Ngọc C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện G V đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của bị hại, người liên quan, kết luận định giá tài sản số 59/KLĐG-HĐ, ngày 08/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện G V và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 13/6/2021, tại văn phòng tổng hợp thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn S. Việt Nam, địa chỉ: cụm công nghiệp G.Vn, xã G.Vn, huyện G V, Phạm Ngọc Cg đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Vostro 15, vỏ màu đen, Core i5 – 8250U/4GD4/1T5/DVDRW/15.6HD/BT4/4C40WHR, RAM DDR4 8GB, ổ cứng HDD 1TB có giá trị 10.860.000 đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn S. Việt Nam.

Bộ luật hình sự quy định

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên hành vi của bị cáo Phạm Ngọc C đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Việc các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố và xét xử bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động, bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm nên cần phải buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi cố ý thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

[3] Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không có;

Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhưng do bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, đồng thời giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân nơi bị cáo cư trú và gia đình bị cáo giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo hiện không có công việc nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo

[5]. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell-Vostro 15, Core i5 – 8250U/4GD4/1T5/DVDRW/15.6HD/BT4/4C40WHR, vỏ màu đen, đã qua sử dụng thu giữ từ chị Phạm Thị H. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn S. Việt Nam. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G V đã trả lại cho đại diện hợp pháp của công ty là có căn cứ.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A51, vỏ màu xanh, đã qua sử dụng thu giữ của Phạm Ngọc C. Quá trình điều tra xác định đây là phương tiện mà C sử dụng để tắt hệ thống camera của Công ty TNHH S. Việt Nam sau đó thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 35N1- 120.37; 01 máy tính xách tay nhãn hiệu LG, mã máy 14ZD970-MX10K và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR đều đã qua sử dụng thu giữ của Phạm Ngọc C. Quá trình điều tra xác định số tài sản trên là tài sản hợp pháp của C, không sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G V đã trả lại số tài sản trên cho C là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Công ty TNHH S. Việt Nam, ông Choi Won S1, chị Phạm Thị H không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Phạm Ngọc C nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Đối với hành vi của Phạm Ngọc C cho dừng hệ thống camera giám sát của công ty TNHH S. Việt Nam trong khoảng thời gian từ 16 giờ đến 18 giờ ngày 13/6/2021, quá trình điều tra, đại diện công ty xác định việc C cho dừng hệ thống camera của công ty không gây ra bất cứ thiệt hại nào cho công ty, do đó không đủ căn cứ để xử lý.

Đối với chị Phạm Thị H là người mà C đưa chiếc máy tính xách tay do C trộm cắp của công ty S. để dùng thử. Quá trình điều tra xác định, chị H không biết chiếc máy tính xách tay mà C đưa cho mình là do trộm cắp mà có. Do đó không đủ căn cứ để xử lý đối với chị H.

[8]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện G V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện G V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Từ những nhận định trên cho thấy đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G V tại phiên tòa về tội danh, hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần áp dụng đối với bị cáo là đúng quy định của pháp luật, phù hợp với quan điểm xử lý của Hội đồng xét xử.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Ngọc C phạm tội "Trộm cắp tài sản".

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc C 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/11/2021.

Giao bị cáo Phạm Ngọc C cho Ủy ban nhân dân xã G.H, huyện G V, tỉnh Ninh Bình là nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã G.H, huyện G V, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A51, vỏ màu xanh. (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G V và Chi cục Thi hành án dân sự huyện G V ngày 06/10/2021)

2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Ngọc C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án 04/11/2021. Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 70/2021/HS-ST

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Viễn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;