Bản án về tội trộm cắp tài sản số 69/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 69/2019/HS-ST NGÀY 04/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 04 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 61/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Hồ Văn M, sinh ngày 16/8/2000 tại huyện H, tỉnh Quảng Trị; Nơi cư trú: thôn T, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Vân Kiều; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn T và bà Hồ Thị L; tiền án: có 01 tiền án: Ngày 22/3/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị xử phạt 09 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, tiền sự: không; bị cáo bị bắt thi hành án phạt tù từ ngày 3/5/2019, hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Nghĩa An đóng tại tỉnh Quảng Trị. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị P, Trợ giúp viên pháp lý công tác tại Trung tâm Trợ giúp viên pháp lý tỉnh Quảng Trị bào chữa cho Hồ Văn M. Có mặt.

- Người bị hại: Anh Hồ Văn M2; sinh năm: 1988; Nơi cư trú: thôn T, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Chị Hồ Thị L; sinh năm: 1995; Nơi cư trú: thôn T, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

Người phiên dịch: Ông Lê Bá V; Công tác tại: Hội nông dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 24/4/2019, Hồ Văn M sinh năm 2000, trú tại thôn T, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Trị đi lên rẫy để tìm mật ong; khi đi qua nhìn thấy nhà anh Hồ Văn M2 ở cùng thôn mở cửa ,trong nhà không có ai nên M nãy sinh ý định trộm cắp tài sản. M đi thẳng qua cửa chính vào bên trong nhà anh M2 và đi đến khu vực phía bên phải ngôi nhà (theo hướng từ bên ngoài nhìn vào) lấy trộm 01 cái máy hàn điện (bên ngoài có vỏ bằng kim loại màu xanh, kích thước 33cm x 23 cm x 14,5 cm, hai bên thân máy có dòng chữ JETvn, máy đã qua sử dụng) và 04 chiếc váy thổ cẩm của người dân tộc thiểu số, có nhiều hoa văn màu sẫm (váy chưa qua sử dụng). Sau khi lấy trộm tài sản nói trên, M đem 04 cái váy thổ cẩm đến giấu ở chuồng gà gần khu vực bếp nhà anh M2, còn cái máy hàn điện M giấu ở bụi cây bên đường cách nhà anh M2 khoảng 50 mét. M nghĩ rằng nếu máy hàn không có dây điện sẽ khó bán nên đã quay lại nhà anh M2 lấy 01 sợi dây điện màu đen (dùng để kết nối máy hàn với nguồn điện) rồi đưa ra cất giấu ở vị trí đã giấu máy hàn trước đó. Sau đó M về nhà mình với ý định hôm sau sẽ đến lấy tài sản đưa đi bán vì lúc đó M không có xe máy. Khi M lấy sợi dây điện cầm trên tay đi từ nhà anh Hồ Văn M2 ra thì chị Hồ Thị L; sinh năm 1995; trú tại thôn T, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Trị đứng ở gần đó nhìn thấy nên đã báo cho anh M2 biết và trình báo cơ quan chức năng. Tại cơ quan công an M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình và tự nguyện giao nộp toàn bộ tài sản đã lấy trộm tại nhà anh M2.

Kết luận định giá tài sản số 22/KL-ĐGTS ngày 14/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hướng Hóa kết luận:

- 01 cái máy hàn điện (bên ngoài có vỏ bằng kim loại màu xanh, kích thước 33cm x 23 cm x 14,5 cm, hai bên thân máy có dòng chữ JETvn); đã qua sử dụng có trị giá 2.200.000 đồng.

- 04 chiếc váy thổ cẩm của người dân tộc thiểu số, có nhiều hoa văn màu sẫm, váy chưa qua sử dụng có trị giá là 1.000.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản là 3.200.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hồ Văn M, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thống nhất với Kết luận định giá tài sản ngày 14/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hướng Hóa.

Về vật chứng:

01 cái máy hàn điện (bên ngoài có vỏ bằng kim loại màu xanh, kích thước 33cm x 23 cm x 14,5 cm, hai bên thân máy có dòng chữ JETvn; 04 chiếc váy thổ cẩm của người dân tộc thiểu số, có nhiều hoa văn màu sẫm, váy chưa qua sử dụng. Quá trình điều tra đã thu giữ và trả lại cho anh Hồ Văn M2 các tài sản nói trên theo Quyết định xử lý vật chứng số 25/QĐ ngày 06/8/2019.

Về trách nhiệm dân sự:

Sau khi nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, bị hại anh Hồ Văn M2 không có yêu cầu gì về bồi thường thiệt hại hay chi phí tìm kiếm tài sản.

Tại bản cáo trạng số 63/CT-VKSHH ngày 17 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị đã truy tố Hồ Văn M về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo Hồ Văn M đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Hồ Văn M đúng theo nội dung bản cáo trạng. Đề nghị HĐXX:Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 55; khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự.Tuyên bố: Bị cáo Hồ Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Hồ Văn M: 9 đến 12 tháng tù và đề nghị Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù bản án số: 16/2019/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa , buộc bị cáo Hồ Văn M phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án .

Về trách nhiệm dân sự: anh Hồ Văn M2 là chủ sở hữu đã nhận lại tài sản không yêu cầu giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Tài sản bị chiếm đoạt là 01 cái máy hàn điện (bên ngoài có vỏ bằng kim loại màu xanh, kích thước 33cm x 23 cm x 14,5 cm, hai bên thân máy có dòng chữ JETvn) và 04 chiếc váy thổ cẩm của người dân tộc thiểu số, có nhiều hoa văn màu sẫm (váy chưa qua sử dụng) do anh Hồ Văn M2 là chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hướng Hóa đã trả lại cho anh Hồ Văn M2 là đúng quy định tại khoản 2 Điều 47 BLHS.

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Văn M bào chữa: Đồng ý với quan điểm luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc về hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn gia đình thuộc hộ cân nghèo và trình độ văn hóa, nhận thức pháp luật của bị cáo hạn chế. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 để xử phạt bị cáo từ 6 đến 9 tháng tù.

- Ý kiến của các bị cáo: không có gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hồ Văn M không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các chứng cứ xác định có tội: Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận tội của các bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Hồ Văn M với ý thức mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác, các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của người khác vào đêm ngày 24/4/2019 đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 cái máy hàn điện (bên ngoài có vỏ bằng kim loại màu xanh, kích thước 33cm x 23 cm x 14,5 cm, hai bên thân máy có dòng chữ JETvn) và 04 chiếc váy thổ cẩm của người dân tộc thiểu số, có nhiều hoa văn màu sẫm (váy chưa qua sử dụng) có tổng trị giá là 3.200.000 đồng của anh Hồ Văn M2. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của anh Hồ Văn Mười. Vì vậy đã có đủ cơ sở để kết luận hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, thành khẩn khai báo; nên áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Hồ Văn M đã bị Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị xử phạt 09 tháng tù, về tội “|Trộm cắp tài sản”tại,bản án số: 16/2019/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2019, bị cáo chưa được xóa án tích mà đến ngày 24/4/2019 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy, cần phải bị xử phạt nghiêm minh bị cáo để cải tạo giáo dục các bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương. Ngày 22/3/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị xử phạt 09 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cải tạo hoàn lương mà ngay sau đó tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về chiếm đoạt tài sản, thể hiện sự liều lĩnh, coi thường kỷ cương pháp luật nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và góp phần phòng ngừa chung.

Bị cáo đang chấp hành hình phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số: 16/2019/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa. Vì vậy cần áp dụng khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

[5] Về xử lý vật chứng:

Tài sản bị chiếm đoạt là 01 cái máy hàn điện (bên ngoài có vỏ bằng kim loại màu xanh, kích thước 33cm x 23 cm x 14,5 cm, hai bên thân máy có dòng chữ JETvn) và 04 chiếc váy thổ cẩm của người dân tộc thiểu số, có nhiều hoa văn màu sẫm (váy chưa qua sử dụng) do anh Hồ Văn M2 là chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hướng Hóa đã trả lại cho anh Hồ Văn M2 là đúng quy định tại khoản 2 Điều 47 BLHS.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và giao trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì; do vậy HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Hồ Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 55; khoản 2 Điều 56 ; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Hồ Văn M 09 (chín) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù tại bản án số: 16/2019/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa, buộc bị cáo Hồ Văn M phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 18 ( mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (03/5/2019).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Hồ Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.( 04/11/2019). Người bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 69/2019/HS-ST

Số hiệu:69/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hướng Hóa - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;