Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 67/2021/HS-ST NGÀY 02/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 02 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L; sinh năm: 1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: A Quốc lộ A, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lý Minh C (chết) và bà: Nguyễn Thị D; vợ: Hồ Thị H và 01 con (sinh năm: 2004); tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/11/2001 bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 105/HSST ngày 29/11/2001, ngày 24/4/2007 bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình xử phạt 01 năm 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 99/2007/HSST, ngày 09/6/2008 bị Tòa án nhân dân Quận 8 xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với Bản án số 99/2007/HSST ngày 24/4/2007 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, buộc chấp hành hình phạt chung là 03 năm 04 tháng 16 ngày tại Bản án số 186/2008/HSST, ngày 15/3/2011 bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 58/2011/HSST, ngày 05/6/2012 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 152/2012/HSST, ngày 19/6/2014 bị Tòa án nhân dân Quận 9 xử phạt 01 năm tù “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 83/2014/HSST, ngày 22/01/2016 bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 23/2016/HSST; bị bắt giữ ngày: 13/5/2021.

(Bị cáo có mặt).

- Bị hại:

Nguyễn Đình T – Sinh năm: 1966 (vắng mặt) Địa chỉ: H đường L, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Vũ Quang L – Sinh năm: 1965 (vắng mặt) Địa chỉ: I đường S, quận T, TP.HCM

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 13/5/2021, Nguyễn Văn L điều khiển xe môtô (biển số bị gãy một nửa phía dưới, phần trên ghi số 51P7) chạy ngang qua công trình xây dựng tại địa chỉ số 155/1 đường Nhật Tảo, Phường 8, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thì thấy không có người trông coi, nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản; L dựng xe ngoài hẻm rồi đi vào trong nhà, lên lầu 1 và lấy 02 máy khoan, 01 máy cưa, 01 máy cắt và 01 máy Rutơ của ông Nguyễn Đình T, rồi cho vào một tấm vải màu đỏ L ở sàn nhà và bọc lại mang xuống xe cất vào trong 01 giỏ xách nhựa đan do L mang theo từ trước; khi L vừa nổ máy bỏ đi thì bị Tổ trinh sát đặc nhiệm Phòng PC02 Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Tổ trinh sát đặc nhiệm Công an Quận 10 phát hiện, truy đuổi liên tục đến ngã tư đường Châu Thới - Cửu Long, Phường 15, Quận 10 thì bắt giữ được L cùng vật chứng, giải giao đến Công an Phường 8, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt là: 01 máy khoan hiệu Master màu vàng, trị giá 200.000 đồng; 01 máy khoan hiệu Maktec màu đỏ, trị giá 800.000 đồng; 01 máy mài ghi chữ GWS6-10 màu xanh, trị giá 400.000 đồng; 01 máy cưa hiệu Makita màu xám, trị giá 800.000 đồng và 01 máy Rutơ màu đen, hiệu Maktec, trị giá 700.000 đồng. Qua định giá, tổng trị giá các tài sản là 2.900.000 đồng; đã thu hồi và giao trả cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Nguyễn Văn L về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn L đã khai nhận hành vi như trên.

Vật chứng vụ án Đối với: 01 xe môtô kiểu dáng Dream màu nâu, gắn biển số bị gãy một nửa phía dưới, phần trên ghi số 51P7; tại Kết luận giám định số 3836/KLGĐ-X(Đ4) ngày 31/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chiếc xe trên có số khung, số máy không đổi; qua xác minh biển số 51P7-7692 do ông Vũ Quang L đứng tên chủ sở hữu, ông Luyện khai năm 2018 anh đã bán lại cho 01 người không rõ lai lịch tại quận Tân Phú với giá 1.000.000 đồng, L khai năm 2019 mua xe của 01 người không rõ lai lịch tại quận Tân Phú với giá 1.500.000 đồng; hiện đã tạm giữ lại.

Ngoài ra, cơ quan Công an còn tạm giữ từ L: 01 giỏ xách nhựa đan màu xanh đỏ vàng.

Tại Cáo trạng số 58/CT-VKSQ10 ngày 07 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Nguyễn Văn L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại) và nhân thân của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, 5 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị xử lý trách nhiệm và các biện pháp tư pháp, vật chứng khác theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình; qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Văn L đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại với tổng giá trị là 2.900.000 đồng, nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; ngoài ra, bị cáo còn có nhân thân không tốt. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo (nhưng chưa thật sự ăn năn hối cải thể hiện qua quá trình nhân thân của bị cáo), phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo; đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung do đã xóa án tích.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi, giao trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì; do vậy, không có gì để Tòa giải quyết.

Về xử lý vật chứng:

Đối với: 01 giỏ xách nhựa đan màu xanh đỏ vàng; không đáng giá trị; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy.

Đối với: 01 phần biển số bị gãy một nửa phía dưới, phần trên ghi số 51P7; lưu hành không hợp pháp; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy.

Đối với: 01 chiếc xe môtô không biển số (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu: DONA, số loại: /, màu sơn: Nâu, dung tích xi lanh: 97, số khung: NJ100 200161330, số máy: LC150FMG - 02218330); hiện chưa xác định chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, trong khi chiếc xe trên lại là phương tiện dùng vào việc phạm tội; do vậy giao cho Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành thông báo trong thời hạn nhất định, nếu không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận, thì đề nghị căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Văn L;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/5/2021.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo L.

- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy: 01 giỏ xách nhựa đan màu xanh đỏ vàng.

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy: 01 phần biển số bị gãy một nửa phía dưới, phần trên ghi số 51P7.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015; giao Chi cục thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thông báo với thời hạn 12 tháng đối với 01 chiếc xe môtô không biển số 01 chiếc xe môtô không biển số (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu: DONA, số loại: /, màu sơn: Nâu, dung tích xi lanh: 97, số khung: NJ100 200161330, số máy: LC150FMG - 02218330), để chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp (nếu có) đến nhận, trong thời hạn trên kể từ ngày đăng báo mà không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận thì tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

(Tình trạng vật chứng, tài sản theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/9/2021 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67/2021/HS-ST

Số hiệu:67/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;