TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 66/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 62/2022/HS-ST ngày 08-9-2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2022/QĐXXST-HS ngày 16-9-2022, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn Q - Tên gọi khác: Không, sinh ngày 05-7-2003 tại Yên Bái; nơi cư trú: Thôn C, xã M, huyện V, tỉnh Yên Bái; quốc tịch : Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 6/12; nghề nghiệp: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1981 và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1982; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: 01, ngày 26-7-2022 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 22 tháng tại Quyết định số 37/2022/QĐ-TA. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Anh Võ Thành C, sinh năm 1983.
Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Phan Văn Q, sinh năm 1990.
Nơi cư trú: Thôn T, xã Y, huyện T, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.
- Anh Vũ Minh Đ, sinh năm 1983.
Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 25-7-2022, Nguyễn Văn Q cùng bố đẻ là Nguyễn Văn T đi xuống thành phố Y, tỉnh Yên Bái để tìm việc làm. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày hai bố con Q đi đến nhà anh Võ Thành C (là người quen của bố Q). Sau khi ăn cơm trưa xong mọi người cùng nhau đi nghỉ. Đến khoảng 14 giờ Q tỉnh dậy đi xuống bếp nhà anh C tìm nước uống thì phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha mang biển kiểm soát 21B1- 295.32 vẫn để chìa khóa ở ổ khóa điện. Q nẩy sinh ý định trộm cắp chiếc xe bán lấy tiền tiêu sài, Q biết muốn bán được xe thì phải có giấy tờ xe nên Q đi lên phòng khách tìm giấy tờ xe. Q phát hiện trên mặt kệ để ti vi có một chiếc ví, kiểm tra bên trong có giấy đăng ký và giấy bảo hiểm của xe mô tô. Q lấy giấy đăng ký xe rồi điều khiển xe mô tô đi về thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái. Khi Q điều khiển xe mô tô về đến tổ x, thị trấn M thì gặp anh Phan Văn Q, Q nói với Q1 muốn bán xe mô tô. Q liên lạc với Vũ Minh Đ (là người quen của Q1) hỏi có mua xe không. Đ nhất trí mua nên Q1 đã thỏa thuận với Q giá 8.000.000 đồng do Q không có giấy tờ tùy thân nên Q1 trả trước cho Q 6.000.000 đồng và hẹn khi nào mang giấy tờ tùy thân đến thì sẽ trả nốt số tiền còn lại. Khi ngủ dậy phát hiện mất tài sản gia đình anh C đã trình báo công an.
Quá trình điều tra thu giữ được: 01 chiếc xe mô tô; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe; 01 ví giả da và số tiền 6.000.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/KL-HĐĐGTS ngày 27-7-2022 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự thành phố Yên Bái kết luận: Chiếc xe moto nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh-đen-bạc, số khung 1212DY399054, số máy C12E- 5399216, gắn biển kiểm soát 21B1 – 295.32 tình trạng đã qua sử dụng. Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố xác định giá trị tại thời điểm bị trộm cắp ngày 25-7-2022 có giá trị là 6.000.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số: 55/CT-VKSTP ngày 07-9-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội ''Trộm cắp tài sản'' theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội ''Trộm cắp tài sản''.
Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, không tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn Q phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 25-7-2022, Nguyễn Văn Q đã trộm cắp của gia đình anh Võ Thành C 01 chiếc xe mô tô trị giá 6.000.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương. Do đó cần phải đưa bị cáo ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Văn Q là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Ngày 26-7-2022, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 22 tháng nên cần có hình phạt thỏa đáng tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo, bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo phòng chống tội phạm nói chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn và phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần xem xét áp dụng cho bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Đối với Phan Văn Q và Vũ Minh Đ là người mua xe mô tô của Q. Quá trình điều tra xác định anh Q1 và anh Đ không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
[7] Về vật chứng:
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh-đen-bạc, mang biển kiểm soát 21B1 – 295 32; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 ví giả da màu nâu đen. Quá trình điều tra xác định được đây là tài sản hợp pháp của gia đình anh Võ Thành Công nên Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh Công là phù hợp.
- Đối với số tiền 6.000.000 đồng thu giữ của bị cáo, đây là tiền bị cáo bán xe máy cho anh Q1 mà có. Anh Q1 không biết chiếc xe máy bị cáo bán do phạm tội mà có nên giao dịch mua bán xe giữa anh Q1 và bị cáo Q là giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối. Số tiền trên là tài sản của anh Phan Văn Q, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Q1 là phù hợp.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Anh Võ Thành C và anh Phan Văn Q đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo 28/7/2022.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 66/2022/HS-ST
Số hiệu: | 66/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về