Bản án về tội trộm cắp tài sản số 66/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 66/2021/HS-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2021/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 11 năm 2021, đối với:

- Các bị cáo:

1. Trần Văn T, sinh năm 1993 tại xã B, huyện L, tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: thôn C, xã B, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T1 và bà Phạm Thị O; vợ, con: chưa. Tiền án: Ngày 16/7/2014, Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999; Ngày 24/12/2015, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự; Ngày 23/8/2017, Tòa án nhân dân huyện D (nay là thị xã D), tỉnh Hà Nam xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự; tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 30/8/2021, đến ngày 08/9/2021 áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đến nay; có mặt.

2. Trương Quang Gi, sinh năm 1997 tại xã B, huyện L, tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: thôn 1 Ch, xã B, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn Đ và bà Trương Thị Đ; vợ, con: chưa. Tiền án: Ngày 16/3/2018, Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự; Ngày 29/3/2018, Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt 8 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự; Ngày 29/7/2020, Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015; tiền sự: không. Đặc điểm nhân thân: Ngày 04/9/2012, Công an huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng có mang theo vũ khí thô sơ”, phạt số tiền 750.000 đồng; Ngày 20/10/2015, Công an huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe của người khác”, phạt số tiền 2.500.000 đồng; Ngày 07/6/2016, Công an huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe của người khác”, phạt số tiền 2.500.000 đồng; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 31/8/2021, chuyển tạm giam từ ngày 09/9/2021 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Ông Trần Văn C, sinh năm 1960; nơi cư trú: thôn Đội 5, xã Ng, huyện B, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 30/8/2021, Trần Văn T gọi điện thoại rủ Trương Quang Gi cùng đi trộm chó để bán lấy tiền chia nhau tiêu sài thì Gi đồng ý và đến nhà T. Khoảng 19 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, không gắn biển kiểm soát chở Gi đi đến đoạn đường bê tông giáp ranh giữa xã B và xã Nh, huyện L để lấy dụng cụ bắt trộm chó mà T đã giấu ở bụi cây ven đường từ trước gồm 01 bộ kích điện, 01 thòng lọng bằng kim loại, 02 bao tải dứa, 01 con dao và 01 cuộn băng dính màu đen. T nối bộ kích điện với ắc quy của xe mô tô và công tắc điện để ở phần thân bên trái xe mô tô, một đầu bộ dây kích điện nối với thòng lọng bằng kim loại, sau đó điều khiển xe mô tô chở Gi ngồi sau cầm thòng lọng đi đến địa bàn xã Ng, huyện B để tìm bắt trộm chó. Khi đi đến trục đường liên thôn thuộc thôn Đội 5 xã Ng, huyện B, T và Gi nhìn thấy 01 con chó đang chạy ngược chiều ở lề đường bên phải; T điều khiển xe mô tô đi chậm lại, Gi bật công tắc kích điện và dùng tay phải cầm thòng lọng tròng vào cổ con chó làm con chó bất tỉnh nằm ra đường. T dừng xe cùng Gi dùng băng dính quấn xung quanh mõm con chó rồi bỏ vào trong bao tải dứa và đặt lên phần giữa xe mô tô. Sau đó T điều khiển xe mô tô chở Gi tiếp tục đi tìm chó để bắt trộm thì gặp lực lượng Công an tuần tra, phát hiện, truy đuổi. T điều khiển xe bỏ chạy đến khu vực ngã ba giao nhau giữa đường ĐT496 và đường ĐH02 thuộc thôn Đội 6, xã Ng thì bị ngã xe. Trần Văn T bị lực lượng Công an bắt giữ; Trương Quang Gi chạy thoát đến ngày 31/8/2021 ra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân và đồng phạm.

Thu giữ vật chứng và phương tiện liên quan, gồm có:

- 01 xe mô tô không gắn biển kiểm soát, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu sơn đen. Kiểm tra và thu giữ bên trong cốp xe 01 bộ kích điện có 02 dây dẫn điện nối với ắc quy của xe mô tô, 01 bao tải dứa kích thước (109x62)cm màu vàng, mặt ngoài ghi chữ “Ngọc Quyển” và 01 áo chống nắng loại có mũ kẻ caro, màu đen - trắng - xám.

- 01 bao tải dứa kích thước (109x62)cm, màu vàng, mặt ngoài ghi chữ “Ngọc Quyển”, bao tải có vết rách kích thước (25x10)cm.

- 01 dao kim loại đã rỉ sét, dài 92cm gồm 02 phần: cán dao tự chế dài 61,5cm làm bằng loại tuýp phi 21; thân dao dài 30,5cm có một lưỡi sắc, đầu vát bằng, bản dao chỗ rộng nhất 5,5cm.

- 01 con chó đã chết, loại chó ta, giống đực, lông màu tro, có quấn băng dính màu đen quanh mõm.

Đối với 01 thòng lọng bằng kim loại dài khoảng 01m và 01 cuộn băng dính màu đen, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục đã tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 51 ngày 06/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Lục kết luận: “Trị giá 01 con chó giống đực, màu lông tro, loại chó ta, trọng lượng 12 kg, con chó còn sống là: 1.080.000 đồng”.

Cáo trạng số 62/CT-VKS-SH ngày 21/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam truy tố Trần Văn T, Trương Quang Gi về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi. Áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trương Quang Gi. Xử phạt bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi; mỗi bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: bị hại ông Trần Văn C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác nên không đặt ra xem xét. Xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 bộ kích điện, 02 bao tải dứa, 01 áo chống nắng và 01 dao kim loại.

Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời nói sau cùng đều mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về các hành vi, quyết định đó.

[2] Về tội danh và vai trò của các bị cáo trong vụ án:

Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, bản kết luận định giá tài sản, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 30/8/2021, Trần Văn T điều khiển xe mô tô (không gắn biển kiểm soát) chở Trương Quang Gi và mang theo dụng cụ với mục đích bắt trộm chó. Khi đi đến địa bàn thôn Đội 5, xã Ng, huyện B thì T, Gi đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 con chó trị giá 1.080.000 đồng của gia đình ông Trần Văn C.

Mặc dù tài sản các bị cáo trộm cắp có trị giá 1.080.000 đồng, dưới 2.000.000 đồng nhưng do Trần Văn T và Trương Quang Gi đều đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên đã phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Trong vụ án này, bị cáo Trần Văn T là người khởi xướng, rủ rê, chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội và cùng Trương Quang Gi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên T giữ vai trò thứ nhất, Gi giữ vai trò thứ hai trong vụ án.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương.

Do vậy, hành vi của các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thấy:

Về nhân thân: Các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi là những đối tượng có nhiều tiền án và đặc điểm nhân thân xấu.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Trần Văn T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo Trương Quang Gi phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; trước khi mở phiên tòa bị cáo Trần Văn T xuất trình đơn trình bày gia đình khó khăn, bị cáo bị thương tích gẫy xương đùi, hiện việc đi lại còn đau nhức và khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Trương Quang Gi đã ra đầu thú nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét đánh giá khách quan, toàn diện vụ án cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung. Trong vụ án, mặc dù bị cáo Trần Văn T là người khởi xướng, giữ vai trò thứ nhất, bị cáo Trương Quang Gi giữ vai trò thứ hai nhưng Gi phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” nên mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo Trần Văn T và Trương Quang Gi là ngang nhau.

- Hình phạt bổ sung: Căn cứ vào biên bản xác minh tài sản thấy các bị cáo không có tài sản riêng gì nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án, bị hại ông Trần Văn C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng và tài sản, tài liệu tạm giữ:

- Đối với con chó là tài sản hợp pháp của gia đình ông Trần Văn C, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục đã trả lại cho gia đình ông C là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Đối với xe mô tô không gắn biển kiểm soát, nhãn hiệu YAMAHA, là tài sản hợp pháp của bà Phạm Thị O, sinh năm 1964, trú tại thôn C, xã B, huyện L; Quá trình điều tra xác định ngày 30/8/2021, Trần Văn T sử dụng xe mô tô (có đăng ký xe máy BKS 90B3 - 418.99) của mẹ đẻ là bà Phạm Thị O đi trộm cắp tài sản nhưng bà O không biết, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục đã trả lại xe mô tô cho bà O là phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời bà Phạm Thị O không có đề nghị gì đối với những hư hỏng của xe mô tô.

- Đối với 01 bộ kích điện, 02 bao tải dứa, 01 áo chống nắng và 01 dao kim loại là công cụ sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi. Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trương Quang Gi. Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 01 (một) năm tù; được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 30/8/2021 đến ngày 08/9/2021. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù.

Xử phạt: Bị cáo Trương Quang Gi 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/8/2021.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bộ kích điện, 02 bao tải dứa, 01 áo chống nắng và 01 con dao bằng kim loại (Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục và Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Hà Nam ngày 22/10/2021).

3. Án phí: Buộc các bị cáo Trần Văn T, Trương Quang Gi; mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 66/2021/HS-ST

Số hiệu:66/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;