Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 64/2022/HSST NGÀY 17/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 31/2022/HSST, ngày 26 tháng 01 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn Tr, sinh năm 1999 tại Đồng Nai; Tên gọi khác: Không; Hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã P, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; con ông: Nguyễn Thành Tr (đã chết) và bà Đặng Thị Kim L; bị cáo là con thứ hai trong gia đình có 04 anh chị, em và chưa có vợ con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 21/01/2021 bị công an xã Phước An, huyện Nhơn Trạch xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản số tiền 1.500.000 đồng, bị cáo đóng phạt ngày 22/11/2021.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1979 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng: Ông Tô Văn C, sinh năm 1974 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

(Bị cáo Nguyễn Tuấn Tr có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tuấn Tr, ngụ tại Ấp B, xã P, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai không có nghề nghiệp ổn định và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản theo quyết định số: 25/QĐ-XPVPHC ngày 21/01/2021 do Công an xã Phước An ra quyết định xử phạt Nguyễn Tuấn Tr số tiền 1.500.000 đồng. Vào khoảng 13 giờ ngày 02/8/2021, Tr mang theo 02 tấm lưới đánh cá đi từ nhà tại Ấp B, xã P, huyện Nhơn Trạch đến khu vực cầu suối Dẹp để đánh bắt tôm, cá. Khi Tr đi qua đùng nuôi tôm của ông Tô Văn C ngụ tại Ấp B, xã P, huyện Nhơn Trạch thấy không có ai trông coi nên Tr đi vào thả 02 tấm lưới đánh cá của mình xuống đùng để bắt trộm hải sản. Lúc này Tr thấy đùng cá ở bên cạnh của ông Nguyễn Văn T có để sẵn 08 lưới đánh cá nên Tr đi sang kéo lên và lấy trộm 05 lưới đánh cá đem qua đùng của ông C thả 02 lưới đã trộm được xuống đùng nhằm mục đích bắt trộm hải sản, còn 03 tấm lưới còn lại Tr mang về nhà. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Tr quay lại đùng nuôi tôm của ông Tô Văn C để thu lưới bắt cá thì bị ông C và ông T bắt quả tang, tại Công an xã Phước An Tr đã thừa nhận hành vi trộm cắp 5 tấm lưới đánh cá của ông T. Công an xã Phước An đã lập biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm và chuyển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Nhơn Trạch để điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 113/KLGĐ-HĐĐG ngày 16/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Nhơn Trạch kết luận: 05 lưới đánh cá. Giá trị sử dụng còn lại là 90%, tài sản có giá: 1.575.000 đồng.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Tuấn Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số 34/CT-VKSNT, ngày 21 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38, điểm a, khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn Tr từ 06 – 08 tháng tù.

Tang vật vụ án: Không có.

Trách nhiệm dân sự: Quá trình chuẩn bị xét xử bị hại Nguyễn Văn T có đơn không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị hại ông Nguyễn Văn T; người làm chứng ông Tô Văn C đã được tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Việc vắng mặt không làm ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[3] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội:

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tuấn Tr đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu đã thu thập được tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có cơ sở kết luận: Vào lúc 13 giờ ngày 02/8/2021, tại Ấp B, xã P, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Tuấn Tr đã thực hiện hành vi trộm cắp 05 lưới đánh cá của ông Nguyễn Văn T trị giá 1.575.000 đồng. Tuy nhiên vào ngày 21/01/2021, Tr đã bị Công an xã Phước An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản nhưng chưa hết thời hiệu nên hành vi của bị cáo Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mặt khác gây ảnh hưởng xấu về an ninh và trật tự trong xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi và hậu quả do hành vi của mình gây ra nhưng do tham lam, lười lao động và xem thường pháp luật nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Về tình tiết tăng nặng: Không có.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ các quy định của pháp luật giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị hại ông Nguyễn Văn T yêu cầu bị cáo Nguyễn Tuấn Tr phải bồi thường thiệt hại với số tiền 1.575.000 đồng. Tuy nhiên quá trình chuẩn bị xét xử bị hại Nguyễn Văn T có đơn không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

[8] Quá trình điều tra ông Tô Văn C cho rằng việc bị cáo Nguyễn Tuấn Tr thả lưới xuống đùng của ông làm tôm, cá bị chết thiệt hại khoảng 1.500.000 đồng, tuy nhiên ông C không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.

[9] Đối với 02 người thanh niên tên Xô và Kha cho bị cáo Tr đi nhờ xe đến khu vực cầu suối Dẹp. Quá trình điều tra bị cáo và bị hại xác định chỉ một mình bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo chỉ nhờ Xô và Kha chở đến khu vực cầu suối Dẹp, chứ Xô và Kha không biết gì về việc trộm cắp tài sản của bị cáo. Do Xô và Kha không liên quan gì đến việc phạm tội của bị cáo Nguyễn Tuấn Tr nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Nhơn Trạch không khởi tố là đúng qui định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn Tr 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày vào trại thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Nguyễn Tuấn Tr có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Bị hại ông Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2022/HSST

Số hiệu:64/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;