Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 64/2022/HS-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/4/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2022/TLST-HS ngày 13/4/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2022/QĐXXST-HS ngày 14/4/2022 đối với các bị cáo:

1. Mùi Văn L, sinh năm 1995; HKTT: Bản N, xã T, huyện M, tỉnh S; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Mùi Văn C, sinh năm 1971 và bà Đinh Thị T, sinh năm 1976; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Bản án số 04/2014/HSST ngày 28/10/2014, Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng kể từ ngày 28/10/2014 về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/01/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

2. Lương Văn Q, sinh năm 1996; HKTT: Xóm 6, thôn H, xã N, huyện N, tỉnh N; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Giới tính: Nam; Con ông: Lương Văn C, sinh năm 1958 và bà Vũ Thị T, sinh năm 1964; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/01/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Mùi Văn L: Ông Trương Công Đ – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội. (Có mặt).

- Bị hại: Chị Lương Thị Ngọc H, sinh năm 1990; HKTT: Số 5A, ngõ 78 M, phường M, quận N, TP.H. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Mùi Văn L và Lương Văn Q là những đối tượng không có việc làm, thu nhập không ổn định. Ngày 25/12/2021, qua mạng xã hội Facebook, L quen biết với Lương Văn Q rồi rủ Q cùng ở phòng trọ của L tại địa chỉ số 101, nghách 59 Văn Tiến Dũng, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Tại đây, L biết Q cũng vay mượn, nợ nần không có tiền chi tiêu cá nhân nên đã rủ Q đi cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu sài. Tối ngày 30/12/2021, Q cùng L đi xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh, BKS: 15B1-845.56 của Q đi trên các tuyến đường thuộc khu vực quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm để cướp giật tài sản nhưng không thực hiện được.

Đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 30/12/2021, L và Q bàn nhau lên mạng tìm kiếm xem có ai rao bán điện thoại đắt tiền để tiếp cận, lợi dụng sơ hở của người bán sẽ chiếm đoạt. Sau khi tìm kiếm trên mạng, L thấy chị Lương Thị Ngọc Hà (sinh năm: 1990, Địa chỉ: số nhà 5A ngõ 78 Mễ Trì Thượng, Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội) rao bán 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max với giá là 25.000.000 đồng nên sau khi hỏi địa chỉ, L và Q thống nhất L sẽ là người tiếp cận, lợi dụng sơ hở của chị Hà để chiếm đoạt chiếc điện thoại trên còn Q sẽ đợi L ở đầu ngõ để khi L chiếm đoạt được điện thoại thì Q sẽ chở L tẩu thoát. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, L và Q đi đến nhà chị Hà, Q đứng đợi ở đầu ngõ còn L đi vào nhà số 5A ngõ 78 Mễ Trì Thượng để gặp chị Hà giả vờ hỏi mua chiếc điện thoại Iphone 12 Pro Max để tìm sơ hở sẽ chiếm đoạt nhưng do không thấy chị Hà có sơ hở nào nên L không thực hiện được, L sau đó lấy lý do không biết kiểm tra máy điện thoại và hẹn chị Hà vào sáng ngày 31/12/2021 sẽ nhờ bạn đi cùng đến kiểm tra rồi mua chiếc điện thoại trên.

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 31/12/2021, Q tiếp tục chở L đến đầu ngõ 78 Mễ Trì Thượng và để L đứng đợi còn Q đi xe máy qua nhà chị Hà để quan sát tình hình, địa thế và quay lại nói với L nhà chị Hà không có ai để L vào chiếm đoạt tài sản. L lúc này do sợ nên nhờ Q đi mua rượu để uống cho có thêm can đảm nhưng Q không đi mua mà đưa cho L 20.000 đồng, L sau đó đi mua và uống hết khoảng 500ml rượu để lấy cam đảm. Đến khoảng 09 giờ 10 phút cùng ngày, Q chở L đến đầu ngõ 78 Mễ Trì Thượng rồi đợi ở ngoài còn L đi vào nhà chị Hà gặp và yêu cầu chị Hà mang chiếc điện thoại Iphone 12 Pro Max cho L xem để cài đặt lại máy, do chị Hà để hộp điện thoại trên tầng 3 nên chị Hà đã đi lên để lấy hộp điện thoại. Lúc này, L quan sát thấy tại quầy tầng 1 trong nhà chị Hà có để chiếc máy tính xách tay mang nhãn hiệu Apple MacBook Air, màu trắng bạc nên L nảy sinh ý định chiếm đoạt. Quan sát thấy không có ai trong nhà nên L đợi cho chị Hà đi khuất lên cầu thang liền dùng hai tay gập chiếc Laptop trên lại rồi ôm chạy ra bên ngoài. Đúng lúc này, con gái chị Hà là cháu Nguyễn Ngọc Trâm Anh (sinh năm: 2013) đang học online trong phòng bếp nhìn ra phát hiện thấy L lấy chiếc Laptop bỏ chạy ra ngoài nên đã tri hô “trộm, trộm”, chị Hà nghe thấy liền chạy xuống đuổi theo L nhưng không đuổi kịp. L cầm chiếc Laptop chạy ra chỗ Q đang đợi sẵn ngồi lên xe và bảo Q “Chạy đi, chạy đi”. Q điều khiển xe bỏ chạy và chở L về phòng trọ và rao bán chiếc máy tính xách tay trên mạng nhưng do không có người mua và do sợ bị phát hiện nên L và Q xảy ra tranh cãi và Q bỏ đi về quê. Mùi Văn L sau đó đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên ngày 31/12/2021 đã đến Cơ quan Công an đầu thú và giao nộp:

01 Laptop nhãn hiệu Apple Macbook Air màu bạc, màn hình 13,3 Inch, ổ cứng 128 GB đã qua sử dụng cùng 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy S8+, gắn Sim số:

0582.700.654 (L khai là điện thoại L sử dụng liên lạc hỏi mua điện thoại của chị Hà). Đến ngày 05/01/2022, Lương Văn Q cũng đến Cơ quan điều tra đầu thú.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 46 ngày 12/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, kết luận: 01 Laptop nhãn hiệu Apple Macbook Air, model: A1466, số Seri: C02WCPZAG1WK, màu bạc, thông số kỹ thuật: Intel core i5 1.8GHz/Ram 8GB DDR3/Intel Graphic 6000 đã qua sử dụng trị giá: 11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng).

Tại cơ quan điều tra, Mùi Văn L và Lương Văn Q khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của Mùi Văn L và Lương Văn Q phù hợp với lời khai người bị hại; phù hợp lời khai người làm chứng; kết quả thực nghiệm điều tra; phù hợp vật chứng đã thu giữ và tài liệu điều tra khác.

Ngày 25/02/2022, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng và tiến hành trao trả chiếc Laptop nhãn hiệu Apple Macbook Air màu bạc đã thu giữ cho chị Lương Thị Ngọc Hà. Chị Hà không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

Đối với chiếc xe máy nhẫn hiệu Yamaha Exciter màu xanh, BKS: 15B1- 845.56, Q khai là xe do Q mua từ năm 2019 để sử dụng, khi mua có đầy đủ giấy tờ. Ngày 31/12/2021, Q có để chiếc xe trên ở vỉa hè để vào khu vực Công viên hồ điều hòa Mai Dịch, Cầu Giấy ngồi uống nước nhưng Q quên không rút chìa khóa nên đã bị mất trộm cùng giấy tờ xe để trong cốp, Q không trình báo cơ quan Công an. Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải Q xác định địa điểm bị mất trộm xe máy trên và tiến hành xác minh tại Công an phường Mai Dịch xác định không có ai trình báo về việc bị mất trộm chiếc xe máy có đặc điểm nêu trên. Xác minh và tra cứu xe tang vật xác định xe không có trong dữ liệu xe vật chứng và đứng tên đăng ký xe là anh Trịnh Văn Hậu (SN: 1990; HKTT: Ngô Du, Tiên Thắng, Tiên Lãng, Hải Phòng), anh Hậu khai mua và đăng ký xe năm 2014, anh Hậu sử dụng đến năm 2019 thì đã bán cho người đàn ông không quen biết nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ và thu giữ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 81/CT-VKSNTL ngày 13/4/2022 Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã truy tố các bị cáo Mùi Văn L, Lương Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại điện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Mùi Văn L từ 12 đến 15 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Lương Văn Q từ 09 đến 12 tháng tù.

Về vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8+ màu xám bạc.

Về dân sự: Không.

Người bào chữa cho bị cáo L trình bày quan điểm nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật hạn chế, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị HĐXX xét xử dưới mức đề xuất của Viện kiểm sát.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 31/12/2021, tại số nhà 5A ngõ 78 Mễ Trì Thượng, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Mùi Văn L và Lương Văn Q đã có hành vi trộm cắp chiếc Laptop nhãn hiệu Apple Macbook Air màu bạc, trị giá 11.000.000 đồng của chị Lương Thị Ngọc Hà.

[3] Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố các bị cáo là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, vai trò và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên các bị cáo Mùi Văn L, Lương Văn Q đã thống nhất, bàn bạc với nhau đi trộm cắp tài sản mục đích lấy tiền chia nhau tiêu sài, vì vậy xác định vai trò của các bị cáo là ngang nhau.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản, gây mất trật tự trị an xã hội, tạo dư luận xấu trong khu vực. Các bị cáo nhận thức rõ việc trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Bị cáo L có nhân thân xấu, bị Tòa án huyện Mộc Châu xét xử về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc cách ly ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ cải tạo, giáo dục bị cáo; đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Song xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại đầy đủ, bị hại không yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo L là người dân tộc thiểu số, gia đình thuộc vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, gia đình thờ cúng liệt sĩ Mùi Văn Sang là ông Nội của bị cáo có xác nhận của chính quyền địa phương nên cho bị cáo được hưởng các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Q phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là lần đầu tiên bị đưa ra truy tố và xét xử, có nhân thân tốt ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại đầy đủ, bị hại không yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên áp dụng các tình tiết theo điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Xét bị cáo Q có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên cho bị cáo được hưởng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có điều kiện thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8+ màu xám bạc thu giữ của bị cáo L.

[7] Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Mùi Văn L, Lương Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Mùi Văn L 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/01/2022.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Văn Q 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 (Mười bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trả tự do ngay cho bị cáo nếu bị cáo không bị giam giữ về một tội nào khác.

Giao bị cáo cho UBND xã Nghĩa Phú, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về dân sự: Không.

Về vật chứng:

Tịch thu sung quỹ nhà nước:

01 điện thoại Samsung Galaxy S8+màu xám bạc, số Imei/seri: R58J55XPVWV. Theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 133 ngày 13/4/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm và Chi cục thi hành án quận Nam Từ Liêm.

Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2022/HS-ST

Số hiệu:64/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;