Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 64/2022/HS-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 1 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thanh phố Th, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 78/2021/TLST-HS ngày 29/12/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 1 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh năm 1996 tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: Số 04/140 L1, phường Đông H, Thanh phố Th, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 8/12; Con ông: Lê Văn B (đã chết); Con bà: Lê Thị H, sinh năm: 1971;Bị cáo là con duy nhất trong gia đình ;Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27/3/2017 bị Công an Thanh phố Th xử phạt hành chính về hành vi “ Trộm cắp tài sản”. Tạm giữ: Không. Tạm giam: Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/11/2021 tại Nhà Tạm giữ Công an huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Lê Thị Ng, sinh năm 1997; “Vắng mặt” Địa chỉ: Khu phố 8, thị trấn N, huyện Tr, tỉnh Thanh Hóa (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hồ Hữu T1, sinh năm: 1993. “Vắng mặt” Địa chỉ: Khu phố V, phường Q, TP S, tỉnh Thanh Hóa.

2. Anh KIều Minh G, sinh năm: 1998. “Vắng mặt” Địa chỉ: SN 188 Ng, phường Đông H, Thanh phố Th,T. Thanh Hóa. (anh Hồ Hữu T1 và anh Kiều Minh G đã có đơn xin xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền xài cá nhân nên khoảng 21h50 phút ngày 22/10/2021, Lê Văn T một mình đi bộ quanh các phố gần nhà nhằm mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi đến dãy nhà trọ ở số nhà 81 L, phường Đ, Thanh phố Th, T quan sát thấy cổng không khóa nên đi vào phòng trọ số 03 lấy đi chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu HP core i3, màu bạc, số seri: 5CD0354GM3 của chị Lê Thị Ng- sinh năm 1997, trú tại Khu phố 8, thị trấn N, huyện Tr, tỉnh Thanh Hóa. T bỏ chiếc máy tính vào trong người và ra đường L1 đón taxi mang đến bán cho anh Kiều Minh G- sinh năm 1998, trú tại SN 188 Ng, phường Đông H, Thanh phố Th được 700.000đ. Toàn bộ số tiền trên T đã sử dụng để chi tiêu cá nhân.

Theo báo cáo của bị hại là chị Lê Thị Ng, chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu HP core i3 màu bạc chị mượn của anh Hồ Hữu T1 - sinh năm 1993, trú tại Khu phố V, Phường Q, Thành phố S, Tỉnh Thanh Hóa trị giá khoảng 7.000.000đ.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 165/KL-HĐĐGTS ngày 09/11/2021, Hội đồng định giá tài sản của Ủy ban nhân dân Thanh phố Th kết luận: Chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu HP core i3, màu bạc, đã qua sử dụng trị giá: 8.552.000đ Về vật chứng và trách nhiệm dân sự: Ngày 19/11/2021, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc máy tính xách tay cho chị Lê Thị Ng. Chị Ng đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về mặt dân sự.

Đối với anh Kiều Minh G, là người mua chiếc máy tính xách tay của Lê Văn T với giá 700.000đ, khi mua anh G không biết đó là tài sản do T phạm tội mà có và cũng không có tài liệu chứng minh anh G biết việc trộm cắp của T nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý. Anh G không có yêu cầu bồi thường gì về mặt dân sự .

Đối với người lái xe Taxi chở T khi T đi bán máy vi tính thì bị cáo không nhớ đã đi xe Taxi nào, không nhớ người lái xe Taxi là ai, cũng không nhớ cụ thể bắt xe ở địa điểm nào mà chỉ nhớ là có ra đường L1 vẫy xe để đi và cũng không nói cho người lái xe Taxi biết là đi bán tài sản trộm cắp . Vì vậy, không có căn cứ để xử lý.

Đối với anh Hồ Hữu T1 – chủ sở hữu chiếc máy tính đã cho chị Ng mượn, hiện nay anh đã nhận lại chiếc máy tính từ chị Ng, anh không có yêu cầu bồi thường gì về mặt dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 30/CTr-VKS ngày 21 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Th truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên và không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết quả định giá .

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Th tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát . Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong quá trình điều tra và các vật chứng thu được trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ và cơ sở để kết luận:

Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 22/10/2021, tại phòng trọ số 3 số nhà 81 L, Phường Đ, Thanh phố Th. Lê Văn T đã đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt của chị Lê Thị Ng chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu HP core i3, màu bạc, đã qua sử dụng trị giá: 8.552.000đ.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: hành vi của bị cáo Lê Văn T có đủ dấu hiện cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS như đề nghị của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất vụ án: Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ sức khỏe và có khả năng nhận thức về hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội. Nhưng chỉ muốn hưởng lợi không bằng sức lao động của bản thân, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của bị hại, lén lút thực hiện hành vi trộm cắp, thể hiện bị cáo là người rất liều lĩnh, xem thường pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có nhân thân xấu ngày 27/3/2017 bị Công an Thanh phố Th xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng không chịu cải sửa mà còn phạm tội chứng tỏ bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, coi thường pháp luật . Vì vậy, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thấy sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo, sớm trở thành người công dân tốt.

[5] Về phần bồi thường dân sự: Chị Lê Thị Ng và anh Hồ Hữu T1 đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu gì thêm. Nên công nhận phần dân sự giữ bị cáo và với chị Ng, anh T1 đã được giải quyết xong.

Đối với anh Kiều Minh G, là người mua chiếc máy tính xách tay của Lê Văn T với giá 700.000đ mà không biết là tài sản trộm cắp, anh G đã giao nộp cho cơ quan Công an chiếc máy tính này và không yêu cầu bị cáo bồi thường về mặt dân sự. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét vấn đề bồi thường dân sự của bị cáo đối với anh G trong vụ án này mà giành quyền khởi kiện vụ án dân sự cho anh G nếu khi nào anh có yêu cầu.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTV Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 331; Điều 332; Điều 333; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội quy định về án, phí lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 9 ( chín ) tháng tù . Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 17/11/2021.

Trách nhiệm dân sự: Công nhận phần dân sự của bị cáo Lê Văn T đối với chị Lê Thị Ng và anh Hồ Hữu T1 đã giải quyết xong.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án đối với khoản tiền án phí theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự .

Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2022/HS-ST

Số hiệu:64/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;