Bản án về tội trộm cắp tài sản số 63/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 08/12/1987 tại xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 23, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Phạm Thị T; gia đình có 10 anh, chị em, bị cáo là con thứ chín; tiền án: Ngày 26/02/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường xử phạt 24 tháng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; chấp hành xong hình phạt ngày 14/9/2020; tiền sự: Ngày 28/5/2021, Công an xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản.

Nhân thân:

- Ngày 10/11/2005, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường xử phạt 04 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản;

- Ngày 07/3/2017, Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

Bị cáo bị bắt quả tang, tam giữ từ ngày 30/8/2021 đến ngày 08/9/2021 chuyển tạm giam đến nay; “có mặt”.

- Bị hại: Ông Hứa Văn T, sinh năm 1965; địa chỉ: Xóm 8, xã T, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”.

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị M “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 30/8/2021, Nguyễn Văn Đ một mình đi xe đạp từ nhà quanh địa bàn xã T với mục đích tìm sơ hở của người dân để trộm cắp tài sản bán lấy tiền chi tiêu. Khoảng 09 giờ 30 phút, khi đi đến cửa hàng xay xát gạo của ông Hứa Văn T, Đ thấy cửa hàng mở cửa và không có người trông coi nên đã dựng xe đạp gần đó và đi vào trong cửa hàng xát gạo thì thấy có 01 bao xác rắn màu trắng - đỏ - xanh, bên trong có chứa gạo nếp để trên nền nhà, đầu bao không buộc dây, trọng lượng khoảng 20kg. Đương dùng tay cuốn đầu bao gạo lại rồi bê ra ngoài để lên gác ba ga xe đạp của mình, sau đó tay phải điều khiển xe, tay trái thì giữ bao gạo chuẩn bị đi tiêu thụ thì bị ông T phát hiện, truy hô. Đ di chuyển được khoảng 200m thì bị ông T cùng người dân đuổi theo, bắt giữ được và trình báo với Công an xã T. Công an xã T đã mời người chứng kiến, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tiến hành thu giữ 01 bao gạo Đ vừa chiếm đoạt và 01 xe đạp Đ sử dụng vào việc phạm tội. Sau đó C an xã T đã bàn giao Nguyễn Văn Đ và tang vật của vụ án cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn Đ nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 72/KL-HĐĐG ngày 01/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Trường kết luận: 01 bao gạo nếp, loại nếp thấp, màu trắng đục, trọng lượng 20kg, tại thời điểm chiếm đoạt có giá 320.000đ.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại bao gạo nếp 20kg cho ông Hứa Văn T, trả lại chiếc xe đạp đã thu giữ của bị cáo cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị M. Hiện ông T và chị M không yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự.

Cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 04/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh và hình phạt: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự:

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 12 đến 15 tháng tù.

+ Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” như nội dung vụ án đã nêu, bị cáo công nhận Viện kiểm sát đã truy tố đúng hành vi phạm tội của mình. Trong lời nói sau cùng, bị cáo thực sự ăn năn, hối lỗi mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc kết tội: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 30/8/2021, tại khu vực xóm 8, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định, Nguyễn Văn Đ có hành vi chiếm đoạt 01 bao gạo nếp, loại nếp thấp, trọng lượng 20kg, trị giá 320.000đ của của ông Hứa Văn T ở xóm 8, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định thì bị bắt quả tang. Tài sản Đ trộm cắp dưới 2.000.000đ nhưng Đ đã có 01 tiền sự về hành vi Trộm cắp tài sản vào ngày 28/5/2021, nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố là có căn cứ.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi “Trộm cắp tài sản” của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo đang trong độ tuổi lao động, không chịu khó làm ăn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác để lấy tiền chi tiêu cho bản thân nên cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 lần bị kết án về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về việc làm của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Văn Đ không có công việc ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[7] Trách nhiệm dân sự: Ông Hứa Văn T đã nhận lại tài sản là bao gạo 20kg và không có yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự nên không xem xét, giải quyết. Chị Nguyễn Thị M đã nhận lại chiếc xe đạp và không có ý kiền gì là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/8/2021.

2. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 63/2021/HS-ST

Số hiệu:63/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;