Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 11 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, T phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 61/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Nguyên T; sinh năm: 1975 tại tỉnh Bình Phước; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: không; nơi ở: /(không có nơi ở nhất định); nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn M (chết) và bà: Nguyễn Thị U (chết); có vợ: Lê Kim H (đang mang thai) và 01 con (sinh năm 2010); tiền án: 01 (ngày 24/9/2010 bị Tòa án nhân dân Quận 10 T phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 133/HSST); tiền sự: 01 (ngày 28/01/2016 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định xử lý hành chính áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 20 tháng theo Quyết định số 14/2016/QĐ-CSCNBB-TA); nhân thân: ngày 06/8/1992 bị Tòa án nhân dân T phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp tài sản công dân” theo Bản án số 483/HSST, ngày 29/10/1996 bị Tòa án nhân dân Tối cao Tòa phúc thẩm T phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 năm tù về tội “Cướp tài sản công dân” theo Bản án số 1657/HSPT; bị bắt tạm giam ngày: 03/7/2019.

(Bị cáo có mặt).

- Bị hại:

Ông Trần Thiện S – Sinh năm: 1968 (vắng mặt).

Địa chỉ: Chung cư T, Phường H, Quận M, TP.HCM.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Lê Kim H – Sinh năm: 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: đường Nguyễn D, Phường K, Quận T, TP.HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 04/1/2019, Lê Nguyên T đi vào chung cư Ngô Gia Tự, Phường 2, Quận 10 tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến trước nhà của anh Trần Thiện S – địa chỉ: 201 Lô O chung cư Ngô Gia Tự, Phường 2, Quận 10, T phố Hồ Chí Minh, T thấy bên trong có 01 xe môtô nhưng cửa không khóa; T liền đột nhập vào trong nhà, lén lút lấy trộm 01 chiếc xe Honda Future màu đỏ ghi, biển số 59H1-X; 01 điện thoại di động Sony Vetra XA1; 01 điện thoại di động Sony Vetra XA; 01 điện thoại Samsung. Đến 04 giờ 30 phút ngày 05/01/2019, anh S phát hiện nhà bị mất trộm nên đến Công an phường 2, Quận 10 trình báo. Vụ việc được Công An Phường 2, Quận 10 lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Qua truy xét, ngày 03/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 bắt tạm giam Lê Nguyên T và sau đó quyết định khởi tố điều tra về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Quá trình điều tra, Lê Nguyên T khai nhận hành vi như trên. T khai đang đi tìm người bán xe môtô vừa trộm cắp được thì bị Công an Phường 4, Quận 11 phát hiện đưa về trụ sở để làm rõ. Riêng 03 chiếc điện thoại di động T bán cho người đàn ông không rõ lai lịch trên đường Nguyễn Kim nên không thu hồi được.

Tài sản bị chiếm đoạt là: 01 xe môtô Honda Future biển số 59H1-X (qua xác minh xe môtô đứng tên chủ sở hữu là anh Trần Thiện S), 01 điện thoại di động Sony Vetra XA1; 01 điện thoại di động Sony Vetra XA; 01 điện thoại Samsung. Tại Kết luận định giá tài sản số 323/KL-ĐGTS ngày 21/5/2019 và số 560/KL-ĐGTS ngày 11/7/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận: Tổng tài sản bị trộm cắp có trị giá 20.900.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu hồi lại chiếc xe trao trả cho anh S, riêng đối với 03 chiếc điện thoại di động thì bị cáo đã tác động gia đình (bà Lê Kim H) bồi thường 3.000.000 đồng cho anh S; anh S không yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 T Phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Lê Nguyên T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, T phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại, sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm), giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại) và nhân thân của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, 5 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Lê Nguyên T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, T phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, T phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, T phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, T phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà các bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản thực nghiệm điều tra, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Nguyên T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại trị giá 20.900.000 đồng, nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội mà còn xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân. Ngoài ra bị cáo còn có đặc điểm nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 06/8/1992 bị Tòa án nhân dân T phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp tài sản công dân”, ngày 29/10/1996 bị Tòa án nhân dân Tối cao Tòa phúc thẩm T phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 năm tù về tội “Cướp tài sản công dân” (tất cả đã được xóa án tích), ngày 28/01/2016 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định xử lý hành chính áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 20 tháng. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo T người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương; ngoài ra áp dụng khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) phạt bổ sung bị cáo một số tiền để nộp ngân sách Nhà nước. .

Về tình tiết tăng nặng: Ngày 24/9/2010 bị Tòa án nhân dân Quận 10 T phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, nhưng chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý, hành vi này là tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại, bản thân bị cáo có hoàn cảnh đáng thương (vợ đang mang thai, có 01 con nhỏ); do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, b khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi và giao trả cho bị hại, một phần thiệt hại đã bồi thường xong, bị hại không có yêu cầu gì; do vậy không gì để Tòa giải quyết.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Nguyên T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1, 5 Điều 173; khoản 1 Điều 53; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lê Nguyên T;

Xử phạt bị cáo Lê Nguyên T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2019.

Phạt bổ sung bị cáo T 5.000.000 (năm triệu) đồng, nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc:

Bị cáo T chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2019/HS-ST

Số hiệu:62/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;