Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 61/2022/HS-ST NGÀY 01/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 300/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: N.N.T; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác: Tý;

- Sinh năm 1994; - Nơi sinh: Cần Thơ;

- Nơi cư trú: 18/9/18 X, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ;

- Chỗ ở hiện nay: không có nơi ở ổn định;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: không;

- Trình độ học vấn: 02/12; - Nghề nghiệp: không;

- Cha: N.N.T (chết);

- Mẹ: N.T.T (chết);

- Anh, chị ruột: có 02 người, sinh năm 1991 và năm 1993;

- Bị cáo chưa có vợ con;

- Tiền án: chưa.

- Tiền sự: 01 lần, ng ày 10/9/2020 bị Tòa án nhân dân quận N quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng, bị cáo chấp hành xong 23/9/2021.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/3/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N. Có mặt.

2. Họ và tên: N.T.D; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác: không;

- Sinh năm 2003; - Nơi sinh: Cần Thơ;

- HKTT: C33 đường 30/4, phường X, quận N, thành phố Cần Thơ;

- Chỗ ở hiện nay: 58/29 T, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ.

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: không;

- Trình độ học vấn: 8/12; - Nghề nghiệp: không;

- Cha: N.M.A.V, sinh năm 1967;

- Mẹ: N.T.T.N, sinh năm 1969;

- Anh ruột: có 01 người, sinh năm 1994;

- Bị cáo chưa có vợ con;

- Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo bị áp dụng Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Bị hại : Hộ Kinh doanh Cửa hàng D

Đại diện theo ủy quyền: Ông N.A.T, sinh năm 1992 Địa chỉ: 164/50A T, phường An Thới, quận B, thành phố Cần Thơ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 13/11/2021, N.N.T rủ N.T.D đến tiệm game D có địa chỉ 213 Nguyễn Văn Cừ, phường An Hòa, quận N để lấy trộm thẻ ram máy tính thì D đồng ý. Vào khoảng 01 giờ ngày 14/11/2021, T và D gọi xe taxi đến tiệm game D, cả hai lên tầng 01 của tiệm game, D ngồi chơi game ở dàn máy bên phải xéo cầu thang để làm nhiệm vụ canh đường cho T lấy trộm thẻ ram máy tính, nếu gặp quản lý tiệm game đi lên thì D ra hiệu bằng cách “nút chuột” để báo cho T biết. Khi lên tầng 01 T đi lòng vòng tìm máy nào hở kính để lấy thẻ ram, T lấy 01 thẻ ram ở máy tính gần lối đi đưa cho D cất giấu, tiếp đó T lấy thêm 01 thẻ ram nữa của máy tính trong cùng của dãy, sau đó T đi đến máy cạnh lối đi lấy tiếp 02 thẻ ram và đi xuống hàng máy phía dưới lấy 01 thẻ ram nữa rồi nhờ L.N.H.A chơi game gần đó chở T và D về ở phường Thường Thạnh, quận Cái Răng. Đến sáng T mượn xe của A mang 05 thẻ ram đến bán cho H.A.H nhân viên tiệm sửa máy tính tại số 11 Mậu Thân, phường X với giá 380.000đồng/thẻ ram, tổng số tiền bán được là 1.900.000đồng, T sử dụng số tiền này mua ma túy, bánh sinh nhật, thức ăn rồi mang về nhà người quen ở phường Thường Thạnh cùng D và bạn bè sử dụng.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 02 thẻ ram máy tính hiệu Apacer 8GB, UNB DDR4 2400 CL 16-16-16-36;

01 cái USB lưu trữ dữ liệu camera ghi hình đối tượng T, D lấy trộm thẻ ram vào ngày 14/11/2021 và ghi hình từ ngày 08/11/2021 đến ngày 10/11/2021 có một nam một nữ xuất hiện tại một số máy tính mà bị hại phát hiện mất trộm 14 thẻ ram; tiền Việt Nam 1.500.000đồng Căn cứ theo Kết luận định giá tài sản số 1574/KL-HĐĐG ngày 20/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND quận N kết luận: 01 thẻ ram máy tính hiệu Apacer bộ nhớ 8GB loại DDR4, bus 2.400, CL 16-16-16-36 chất lượng còn lại 50% giá trị đơn giá 495.000đồng; tổng cộng 19 thẻ ram bị giá trị 9.405.000đồng Qua điều tra bị cáo N.N.T, N.T.D thừa nhận hành vi lấy trộm 05 thẻ ram máy tính của tiệm game D.

Đối với đối tượng N.T.P và P.N.M.T có liên quan đến vụ mất trộm thẻ ram tại tiệm game D hiện tại đã bỏ địa phương đi, Cơ quan điều tra đã ban hành quyết định truy tìm đối với Thảo và Phước để xử lý sau.

Đối với L.N.H.A khai nhận vào khoảng 04 giờ ngày 14/11/2021 T và D có nhờ A lấy xe đưa về nhà ở Lê Bình, quận Cái Răng rồi cho tiền đổ xăng 10.000đồng, sau đó có cho T mượn xe đi đâu không rõ. Theo các chứng cứ thu thập được thì A không có hành vi giúp sức cho bị cáo T và D lấy trộm tài sản nên không đề cập xử lý.

Làm việc với anh H.A.H khai nhận, vào sáng ngày 14/11/2021 có một nam thanh niên đến bán 05 thẻ ram máy tính hiệu Apacer 8GB UNB DDR4 2400 CL 16-16-16-36 của nhà mang ra bán nên anh H gọi điện hỏi anh N.T.N là chủ tiệm sửa máy tính tại số 11 Mậu Thân, phường X để mua giá 380.000đồng/thẻ, tổng cộng là 1.900.000đồng. Sau đó anh H đưa cho anh N đã bán lại cho khách không rõ địa chỉ 03 thẻ, còn lại 02 thẻ anh N giao nộp Cơ quan điều tra. Khi bán thẻ ram bị cáo T nói là thẻ ram của máy tính ở nhà nên anh H không biết mới mua, nên không đề cập xử lý Về trách nhiệm dân sự: đại diện theo ủy quyền của bị hại anh N.A.T yêu cầu bồi thường mỗi thẻ ram là 500.000đồng. Trong vụ án này anh đã nhận lại được 02 thẻ ram và 1.500.000đồng tự bị cáo N.N.T, anh không yêu cầu gì thêm. Anh yêu cầu nhận lại 14 thẻ ram bị mất hoặc bồi thường 500.000đồng/thẻ ram nếu Cơ quan điều tra tìm được đối tượng lấy trộm.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận N đã xử lý vật chứng trả lại cho đại diện bị hại là anh N.A.T 02 thẻ ram và 1.500.000đồng.

Bản Cáo trạng số 61/CT-VKSNK ngày 25/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố các bị cáo N.N.T, N.T.D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến bào chữa và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát: giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo N.N.T và N.T.D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Riêng bị cáo N.T.D đã nộp khắc phục hậu quả nên cần xem xét tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo T và tương xứng với bị cáo D.

Do đó, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo N.N.T từ 09 tháng đến 01 năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo N.T.D từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Hình phạt bổ sung: miễn cho các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho đại diện bị hại là anh N.A.T 02 thẻ ram và 1.500.000đồng là đúng quy định nên ghi nhận, không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về trách nhiệm dân sự: trong vụ án này bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Căn cứ vào tình tiết vụ án, xét thấy: vào ngày 13/11/2021 N.N.T rủ N.T.D đến tiệm D số 213 Nguyễn Văn Cừ, thì D đồng ý, đến khoảng 01 giờ ngày 14/11/2021 bị cáo N.N.T và N.T.D đi xe taxi đến tiệm game D, cả hai lên tầng 01 của tiệm game khi đó D ngồi chơi game ở dàn máy xéo cầu thang để làm cảnh giới cho T đi xung quanh tìm máy tính nào hở kính để lấy trộm. Số thẻ ram máy tính mà T đã lấy trộm được gồm 05 thẻ ram máy tính hiệu Apacer 8GB UNB DDR4 2400 CL 16-16-16-36. Sau đó, cả hai nhờ L.N.H.A chở về nhà. Tại kết luận định giá tài sản số 1574/KL-HĐĐG ngày 30/12/2021 kết luận 01 thẻ ram máy tính hiệu Apacer bộ nhớ 8GB loại DDR4, bus 2.400, CL 16-16-16-36 chất lượng còn lại 50% giá trị đơn giá 495.000đồng.

Như vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có tổng giá trị là 2.475.000đồng của các bị cáo N.N.T, N.T.D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng truy tố các bị cáo là có căn cứ.

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo N.T.D đã nộp khắc phục hậu quả 1.500.000đồng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo T và bị cáo D là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi, có sức khỏe nhưng bản thân không có nghề nghiệp ổn định, lười lao động chỉ muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà các bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản một cách bất hợp pháp. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được Luật hình sự bảo vệ và xâm phạm đến an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo là người trưởng thành nhận thức được hành vi lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc và phù hợp với mức độ, hành vi phạm tội của từng bị cáo để cải tạo, giáo dục giúp các bị cáo thay đổi nhận thức sống, biết đặt mình trong khuôn khổ pháp luật và qua hình phạt cũng để răn đe, trấn áp những tội phạm tương tự. Vì vậy mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp và có cơ sở chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: do Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng và đại diện bị hại không có yêu cầu gì thêm trong vụ án này nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo N.N.T, N.T.D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo N.N.T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/3/2022.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022, Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP ngày 18/5/2018.

Xử phạt: Bị cáo N.T.D 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường C, quận N, thành phố Cần Thơ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo N.N.T, N.T.D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật) lên Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2022/HS-ST

Số hiệu:61/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;