TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 60/2021/HSST-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 17 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 54/2021/TLST- HSST ngày 19 tháng 7 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 58/2021/QĐXXST - HS ngày 04/8/2021 đối với:
Bị cáo: Lại Duy H, sinh ngày 07/01/1976. Giới tính: Nam.
Nơi cư trú: Thôn V N, xã Đ T, huyện Đ H, tỉnh T B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Bố đẻ: Lại Duy Th, Ông Th là thương binh, thương tật hạng 4/4(đã chết); Mẹ đẻ: Nguyễn Thị M là người được hưởng chính sách như thương binh, thương tật 4/4. Vợ: Phạm Thị Th, sinh năm 1975, Có 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2012.
Tiền án: 01. Bản án số 69/2017/HSST ngày 28/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xử phạt Lại Duy H 02 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, H đã chấp hành xong bản án vào ngày 07/8/2019.
Tiền sự: Không Nhân thân:
Bị cáo 02 lần bị Công an huyện Đông Hưng xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự vào năm 1996 và 2017 đã được xóa tiền sự.
Bị cáo 06 lần bị kết án về tội Trộm cắp tài sản đều đã được xóa án tích gồm :
Ngày 11/4/1997 H bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”;
Ngày 04/8/2000 bị Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân;
Ngày 20/7/2001 bị Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Ngày 14/11/2003 bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
Ngày 19/9/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
Ngày 09/4/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 05/5/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
(Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.)
Bị hại: Anh Đào Hồng Qu, sinh năm 1986 Địa chỉ: Thôn C H Đ, xã Đ Q, huyện Đ H, Th B
Người làm chứng:
1. Anh Hà Văn Đ, sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn C H Đ, xã Đ Q, huyện Đ H, tỉnh T B.
2. Anh Hoàng Văn Q, sinh năm 1984 Địa chỉ: Xóm 2, xã VPh, thành phố T B, tỉnh TB (Bị hại và người làm chứng đều vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 28/4/2021, Lại Duy H một mìnhđiều khiển phương tiện có đèn chiếu sáng (không xác định được đặc điểm, chủ sở hữu của xe) đi từ xã Đ T ra Quốc lộ 39 đi theo hướng thành phố Thái Bình mục đích xem có ai để tài sản sơ hở thì trộm cắp, bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Khi đi đến gian nhà kho của anh Hà Văn Đ, sinh năm 1990, ở thôn C H Đ, xã Đ Q, huyện Đ H ở bên phải Quốc lộ 39, H thấy cửa nhà kho mở, bên trong có ánh điện sáng hắt ra ngoài, không có người trông coi nên H dừng xe lại, dựng phương tiện H đang đi ở lề đường rồi đi bộ vào bên trong nhà kho.Trong kho có 03 chiếc xe mô tô, trong đó 01 xe mô tô nhãn hiệu Super Dream màu nâu, biển kiểm soát 17L2 - 9477 là xe của anh Đào Hồng Q, ở cùng thôn với anh Đ gửi tại đây, chìa khóa xe còn cắm tại ổ khóa điện. Thấy vậy, H dắt chiếc xe này ra ngoài nhà kho rồi nổ máy, điều khiển xe theo Quốc lộ 39 về hướng xã Đ T để cất giấu. Khoảng vài phút sau, H đi bộ một mình quay lại lấy chiếc xe mô tô mà H để ở lề đường trước đó rồi tiếp tục đi về hướng xã Đ T. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, anh Đ phát hiện chiếc xe mô tô Dream của anh Q gửi bị mất nên đã báo cho anh Q biết. Khi anh Q và anh Đ đang đứng trước cửa gian nhà kho thì H điều khiển chiếc xe máy vừa trộm cắp được đi qua theo hướng từ huyện Đông Hưng đi thành phố Thái Bình, nghe thấy tiếng bô xe, đặc điểm xe giống với chiếc xe vừa bị mất nên anh Q và anh Đ đã sử dụng xe ô tô và xe mô tô đuổi theo H. Khi đi đến cây xăng phí bên phải đường thuộc thôn Gia Lễ, xã Đông Mỹ, thành phố Thái Bình thì H đi vào đổ xăng. Còn anh Đ cũng đuổi theo đến nơi, trong lúc anh Hoàng Văn Q là nhân viên bán xăng đang đổ xăng vào xe mô tô cho H thì anh Đ đi tới khống chế H, đồng thời tri hô người dân đến hỗ trợ. Lúc này, tổ tuần tra của Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Thái Bình đang làm nhiệm vụ gần đó đã cùng quần chúng nhân dân đến bắt giữ H. Quá trình bắt giữ một số người dân không rõ tên, tuổi, địa chỉ đã dùng chân, tay đánh làm gẫy xương mũi của H. Ngay sau khi tiếp nhận đối tượng và các tài liệu, vật chứng, tài sản có liên quan, Cơ quan điều tra đã lập biên bản xem xét dấu vết trên thân thể rồi đưa Hữu đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình để điều trị thương tích, đến ngày 05/5/2021 thì H được ra viện.
Ngày 29/4/2021 Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lại Duy H tại thôn V N, xã Đ T, huyện Đ H, tỉnh TB nhưng không thu giữ được đồ vật tài sản gì.
Cơ quan điều tra đã thu thập 04 file video trong Camera an ninh của gia đình anh Đ ghi nhận hình ảnh Hữu điều khiển phương tiện có đèn chiếu sáng đến gian nhà kho để trộm cắp chiếc xe máy Super Dream của anh Q rồi sau đó quay lại lấy chiếc xe máy mà H đã đi đến. Tại bản Kết luận giám định số 48/KLGDĐT- PC09 ngày 24/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình xác định 04 file video trên không bị cắt ghép, chỉnh sửa. Trang phục H mặc trên người tại thời điểm H bị bắt tại cây xăng phù hợp với hình ảnh trang phục H đã lấy trộm chiếc xe máy nhãn hiệu Super Dream tại nhà kho của gia đình anh Đ.
Bản kết luận định giá tài sản số 85/KL-HĐĐGTS ngày 29/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đông Hưng kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Super Dream màu sơn nâu, biển kiểm soát 17L2- 9477 tại thời điểm trộm cắp có giá trị là 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Đào Hồng Q đã nhận lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream sơn màu nâu, biển kiểm soát 17L2 - 9477 và 01 đăng ký xe mô tô, do H trộm cắp xác định còn nguyên vẹn nên không có yêu cầu bồi thường.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cụ thể: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 28/4/2021, tại nhà kho của anh Hà Văn Đ, Lại Duy H có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Super Dream, sơn màu nâu bạc, BKS:
17L2 – 9477 trị giá là 15.000.000 đồng.
Bị cáo H trình bày bị cáo nhận thức việc mình làm là sai trái mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị hại anh Đào Hồng Q vắng mặt tại phiên tòa không có ý kiến trình bày.
Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo. Cáo trạng số 56/CT- VKSĐH ngày 16/7/2021 của Viện kiểm sát Nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố Lại Duy H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; Trong phần tranh luận tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đó giữ nguyên quan điểm truy tố theo Cáo trạng số 56/CT- VKSĐH ngày 16/7/2021 đồng thời đề nghị HĐXX kết tội bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản”;
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự; tuyên phạt bị cáo từ 01(một) năm 09(chín) tháng đến 02(hai) nămtù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng.
Bị cáo H xác định cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi trộm cắp tài sản là đúng pháp luật vì vậy không trình bày lời bào chữa, cũng không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh, mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị.
Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời nói sau cùng: Đã nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Mong được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về với gia đình, có điều kiện chăm sóc mẹ già. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại số tiền và chiếc điện thoại di động cơ quan điều tra quản lý của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Các tài liệu chứng cứ do Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án thì thấy đã tuân thủ các quy định của pháp luật. Đó là các tài liệu hợp pháp chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Căn cứ vào các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như lời khai nhân tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với cáo trạng số 56/CT- VKSĐH ngày 16/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố.
Lời khai nhận tội của bị cáo còn phù hợp với: Lời khai của những người làm chứng, người bị hại, cùng toàn bộ các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 28/4/2021, tại nhà kho của anh Hà Văn Đ thuộc thôn C H Đ, xã Đ Qu, huyện Đ H. Bị cáo Lại Duy H có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Super Dream, sơn màu nâu bạc, BKS: 17L2 – 9477 trị giá là 15.000.000 đồng của anh Đào Hồng Q. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
......
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
[3] Xét tích chất mức độ hậu quả hành vi vi phạm pháp luật, nhân thân của bị cáo thấy rằng:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, với giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 15.000.000 đồng nên hành vi của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều nhiều lần bị Tòa án kết án về tội trộm cắp tài sản, 02 lần bị xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự. Tuy nhiên sau khi thi hành xong các quyết định, bản án, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân, không chịu làm ăn lương thiện, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, do vậy việc đưa các bị cáo ra xét xử áp dụng cho một mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạmđồng thời mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ:Bị cáo thành khẩn khai báo, bố mẹ đẻ của bị cáo đều là thương binh và là người được hưởng chính sách như thương binh. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định. Gia đình có hoàn cảnh khó khăn do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Số tiền 369.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3S màu xanh; 01 ví giả da màu đen; 01 quần Jean nam màu xanh tím than; 01 áo phông nam cổ tròn màu xanh tím than có in logo “Adidas” màu trắng ở ngực phải; 01 mũ lưỡi trai màu đen nhãn hiệu “nón Thiên Sơn”; 01 đôi giày thể thao nhãn hiệu Jiping màu đỏ trắng đen thu giữ của Hữu là tài sản và đồ dùng cá nhân của H không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản là 01 xe mô tô nhãn hiệu Super Dream, sơn màu nâu bạc, BKS: 17L2 – 9477 còn nguyên vẹn không có ý kiến đề nghị gì về việc bồi thường nên không đặt ra giải quyết.
[9] Về các vấn đề khác: Đối với phương tiện có đèn chiếu sáng do H đi đến dựng ở lề đường gần địa điểm trộm cắp, do H không thừa nhận không xác định được biển kiểm soát và đặc điểm xe nên không có căn cứ truy tìm.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lại Duy H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, Điểm s, khoản 1 Điều 51, khoản 2Điều 51, Điểm h, khoản 1 Điều 52, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự Xử phạt Lại Duy H 01(một) năm 09(chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam ngày 05/5/2021.
2.Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.
3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên trả cho bị cáo Lại Duy H số tiền 369.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3S màu xanh; 01 ví giả da; 01 quần Jean; 01 áo phông nam;
01 mũ lưỡi trai màu đen; 01 đôi giày thể thao. Các đồ vật trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng và chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 19/7/2021.
4.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lại Duy H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 60/2021/HSST-ST
Số hiệu: | 60/2021/HSST-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về