Bản án về tội trộm cắp tài sản số 59/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH – TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 59/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 08 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 07 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 08 năm 2022, đối với bị cáo:

Phạm Đình G, sinh năm: 1987; Nơi cư trú: Xóm 1 T, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Phạm Đình T, sinh năm: 1956 (Đã chết); Mẹ đẻ: V Thị H, sinh năm: 1963; Cùng nơi cư trú: Xóm 1 T, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định; Gia đình có 05 anh em. Bị cáo là con thứ hai; Vợ: Chưa có; Nhân thân: Ngày 12/08/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến ngày 30/04/2015 chấp hành xong; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 13/07/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xử phạt 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến ngày 26/04/2020 chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/05/2022, đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Hoàng Đình V, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Xóm 1 T, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Đình G là đối tượng nghiện ma tuý và không có việc làm ổn định. Khoảng đầu tháng 12 năm 2021, G quan sát phát hiện xưởng cơ khí của anh Hoàng Đình V nằm sát đường TL487 thuộc xóm 1 T, xã T ở cạnh đầu ngõ dong vào nhà mình khoá cửa bên ngoài, ban đêm không có người trông coi quản lý nên nảy sinh ý định đột nhập lấy trộm tài sản đem bán lấy tiền tiêu xài. Cụ thể các lần thực hiện hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 11/12/2021, G đi bộ đến trước xưởng cơ khí của anh V, quan sát ngoài đường không có người qua lại. G dùng tay tháo lưới thép B40 được quây bên ngoài phía trước xưởng cơ khí đi vào trong sân phát hiện tại ngách bên hông phía Tây xưởng có để nhiều bao tải bên trong đựng sắt, nhôm, inox vụn và một cầu đẩy dùng dắt xe máy lên xuống cửa được hàn bằng các thanh inox còn mới. G liền lấy 01 chiếc bao tải bên trong đựng sắt vụn và 01 chiếc cầu đẩy xe máy bê ra ngoài để trên vỉa hè phía trước xưởng. Sau đó, G đi bộ về nhà lấy xe đạp của mẹ đẻ là bà Vũ Thị H sinh năm 1963 quay lại xưởng cơ khí chở bao tải đựng sắt vụn và chiếc cầu đẩy bằng inox vừa trộm cắp đến cửa hàng thu mua phế liệu của anh Trần Trung S sinh năm 1969 trú tại thôn Xối Trì, xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định để bán. Thấy cửa hàng của anh S khóa cửa, G để lại chiếc bao tải sắt vụn và chiếc cầu đẩy xe máy bằng inox ở vệ đường cạnh cửa hàng rồi đi về nhà đi ngủ. Đến buổi sáng cùng ngày, G quay lại cửa hàng thu mua phế liệu gặp anh S, G nói: “Em làm cơ khí bên Trung Đông có ít đồ bán, em không làm nữa”. Anh S không hỏi gì thêm về nguồn gốc số phế liệu trên, đồng ý mua với giá thu mua phế liệu rồi cân số sắt vụn đựng trong bao tải được 20 kg, chiếc cầu đẩy xe máy bằng inox được 12 kg. Anh S tính tiền rồi trả cho G 442.000 đồng. Số tiền trên G sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Kết quả định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trực Ninh ngày 23/4/2022 kết luận chiếc cầu đẩy xe máy bằng inox trị giá 1.020.000 đồng, 20kg sắt vụn trị giá 220.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 1.240.000 đồng.

Khoảng 01 giờ sáng ngày 13/12/2021, G đột nhập vào xưởng của anh V lấy trộm 01 bao tải bên trong dựng 15kg nhôm vụn, 01 bao tải bên trong đựng 20kg inox vụn tại vị trí gần giáp lưới thép B40 và 02 cột trụ cổng inox hình vuông được hàn từ các thanh inox còn mới, mỗi cột nặng 25kg để ở ngách bên hông phía Tây xưởng rồi bê ra ngoài để trên vỉa hè phía trước xưởng. Sau đó, G đi bộ về nhà lấy xe đạp quay lại xưởng chở toàn bộ số tài sản trên đến để ở vệ đường cạnh cửa hàng thu mua phế liệu của anh S. Đến buổi sáng cùng ngày, G tiếp tục quay lại gặp và bán cho anh S. Anh S cân được tổng cộng 85 kg nhôm, sắt và inox sau đó tính tiền và trả cho G 1.115.000 đồng. Số tiền trên G sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Kết quả định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trực Ninh ngày 23/4/2022 kết luận 15kg nhôm vụn trị giá 525.000 đồng, 20 kg inox vụn trị giá 740.000 đồng, 2 cột trụ inox còn mới mỗi cột nặng 25kg trị giá 4.250.000 đồng;

tổng giá trị tài sản là 5.515.000 đồng.

Khoảng 01 giờ sáng ngày 15/12/2021, G đột nhập vào xưởng của anh V lấy trộm 01 bao tải bên trong đựng 17kg sắt vụn ở ngách bên hông phía Tây xưởng rồi bê ra ngoài để ở vỉa hè trước cửa xưởng. Sau đó, G quay vào phía trong thì phát hiện bức tường phía Bắc trong ngách có một lỗ thông gió kích thước (40x40) cm thông vào bên trong nhà vệ sinh. G trèo chui qua lỗ thông gió vào bên trong nhà vệ sinh đột nhập vào trong gian nhà xưởng (nhà vệ sinh không có cánh cửa thông với gian nhà xưởng). Qua ánh đèn điện bên ngoài đường hắt vào, G để ý thấy trong xưởng có gắn giá hình chữ L treo trên tường phía Đông, bên trên để nhiều cây inox, cây nhôm có kích cỡ khác nhau, dưới nền xưởng có để một số dụng cụ gồm máy mài cầm tay, máy khoan bê tông, máy khoan sắt, bộ lô uốn, dây hàn ... G lấy 01 máy mài cầm tay loại DKC-KSM100B, vỏ màu đỏ; 01 máy khoan bê tông loại 12mm hãng Makita; 01 máy khoan sắt cầm tay loại 10mm, 500W hãng Black and Decker; 01 đoạn dây hàn dài 20m; 03 bộ lô sử dụng để uốn sắt, inox bằng gang rồi qua lỗ thông gió đưa ra ngoài. G bê số tài sản vừa trộm cắp ra vỉa hè trước xưởng. Sau đó, G đi bộ về nhà lấy xe đạp quay lại xưởng chở toàn bộ số tài sản trên đến để ở vệ đường cạnh cửa hàng thu mua phế liệu của anh S. Đến buổi sáng cùng ngày, G tiếp tục quay lại gặp và bán cho anh S. Anh S cân được 17kg sắt vụn, 03 bộ lô bằng gang tổng trọng lượng 30kg và trả 200.000đ/1 máy mài, 200.000đ/1 máy khoan bê tông, 500.000đ/1 máy khoan sắt, dây hàn 17.500đ/1m). Tổng cộng số tiền anh S trả cho G là 1.164.000 đồng. Số tiền trên G sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Kết quả định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trực Ninh ngày 23/4/2022 kết luận 17kg sắt vụn trị giá 187.000 đồng, 01 máy mài trị giá 200.000 đồng, 01 máy khoan bê tông trị giá 200.000 đồng, 01 máy khoan sắt trị giá 500.000 đồng, 01 bộ dây hàn dài 20m trị giá 350.000 đồng, 03 bộ lô trị giá 330.000 đồng; tổng giá trị tài sản là 1.767.000 đồng.

Rạng sáng ngày 17/12/2021, G tiếp tục đột nhập vào xưởng của anh V lấy trộm 01 bao tải bên trong đựng 15kg nhôm vụn ở ngách bên hông phía Tây xưởng và chui qua lỗ thông gió vào bên trong gian nhà xưởng lấy trộm 08 cây inox còn mới, loại 6m/1 cây, mỗi cây nặng 5,5kg; 03 cây nhôm (trong đó có 01 cây nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 4,1m trọng lượng 3,7kg; 01 cây nhôm màu gỗ hệ 55 dài 6m, trọng lượng 5,5kg và 01 cây nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 2,7m trọng lượng 2,2kg); 01 ống inox hình tròn 53 dài 1,7m trọng lượng 2,4kg; 01 đoạn hộp inox dài 1m trọng lượng 2,8kg rồi G quay đó, G chui ra ngoài qua lỗ thông gió về nhà lấy xe đạp chở toàn bộ số tài sản vừa trộm cắp đến để ở vệ đường cạnh cửa hàng của anh S. Đến sáng cùng ngày, lại bán cho anh S, anh S có hỏi G: “Sao toàn bán sớm thế em”, sợ anh S nghi ngờ G có trả lời: “Em tiện đạp xe đi thể dục chở theo bán anh ạ”, anh S không hỏi gì và cân tổng cộng được 72,6kg và tính tiền trả cho G 750.000 đồng. Số tiền trên G sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Kết quả định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trực Ninh ngày 23/4/2022 kết luận 15kg nhôm vụn trị giá 525.000 đồng, 08 cây inox còn mới trị giá 3.740.000 đồng, 03 cây nhôm trị giá 1.197.000 đồng, 01 ống inox dài 1,7m trị giá 204.000 đồng, 01 hộp inox dài 1m trị giá 238.000 đồng; tổng giá trị tài sản là 5.904.000 đồng.

Khoảng 01 giờ sáng ngày 20/12/2021, G tiếp tục đột nhập vào xưởng của anh V lấy trộm 01 bao tải bên trong đựng 24kg inox vụn ở ngách bên hông phía Tây xưởng rồi bê ra ngoài vỉa hè trước xưởng. G tiếp tục quay lại đột nhập vào trong gian nhà xưởng lấy trộm 05 cây inox, loại 6m/1 cây, mỗi cây nặng 5,5kg; 01 cây đố đậu bằng nhôm màu gỗ hệ 55, dài 4,6m trọng mức lượng 3,3kg; 01 cây khung cánh bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 5,3m trọng lượng 4,1kg; 01 cây đố bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 3m trọng lượng 2,25kg; 01 lá nhôm màu gỗ hệ 55 dài 6m trọng lượng 2kg; 02 cây nẹp bằng nhôm màu trắng, mỗi nẹp dài 6m, trọng lượng mỗi cây 0,5kg rồi luồn qua khe bên dưới cánh cửa sắt xếp phía trước xưởng đẩy ra ngoài sân. G tiếp tục lấy trộm 01 máy hàn inox hãng Amii-WS7-160 chuyển qua lỗ thông gió ra ngoài. Sau đó, G chui ra ngoài qua lỗ thông gió về nhà lấy xe đạp chở toàn bộ số tài sản vừa trộm cắp để ở vệ đường cạnh cửa hàng của anh S. Buổi sáng cùng ngày, G quay lại bán cho anh S, anh S cân tổng cộng được 64,15kg và trả cho G 900.000 đồng. Số tiền trên G sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Kết quả định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trực Ninh ngày 23/4/2022 kết luận 24kg inox vụn trị giá 888.000 đồng, 05 cây inox còn mới trị giá 2.337.500 đồng; Khung nhôm, lá nhôm, nẹp bằng nhôm gồm: 01 cây đố đậu bằng nhôm màu gỗ dài 4,6m trọng lượng 3,3 kg, 01 (một) cây khung cánh bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 5,3m trọng lượng 4,1kg; 01 (một) cây đố bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 3m trọng lượng 2,25kg; 01 (một) lá nhôm màu gỗ hệ 55 dài 6m trọng lượng 2kg; 02 (hai) cây nẹp bằng nhôm màu trắng, mỗi nẹp dài 6m, trọng lượng mỗi cây 0,5kg tổng trị giá 1.328.250 đồng, 01 (một) máy hàn inox hãng Amii-WS7-160 trị giá 1.200.000 đồng; tổng giá trị tài sản là 5.753.750 đồng.

Như vậy; Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt trong 05 lần là 20.179.750 đồng.

Vật chứng thu giữ:

Quá trình điều tra anh Trần Trung S tự nguyện giao nộp: 08 cây inox còn mới, loại 6m/1 cây, mỗi cây nặng 5,5kg; 05 cây inox, loại 6m/1 cây, mỗi cây nặng 5,5kg; 01 cây nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 4,1m trọng lượng 3,7kg 01 cây nhôm màu gỗ hệ 55 dài 6m, trọng lượng 5,5kg; 01 ống inox hình tròn 53 dài 1,7m trọng lượng 2,4kg; 01 đoạn hộp inox kích thước (0,04 x 0,08)m dài 1m, trọng lượng 2,8kg; 01 cây nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 2,7m trọng lượng 2,2kg; 01 cây đố đậu bằng nhôm màu gỗ hệ 55, dài 4,6m trọng lượng 3,3kg; 01 cây khung cánh bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 5,3m trọng lượng 4,1kg; 01 cây đố bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 3m trọng lượng 2,25kg; 01 lá nhôm màu gỗ hệ 55 dài 6m trọng lượng 2kg; 02 cây nẹp bằng nhôm màu trắng, mỗi nẹp dài 6m, trọng lượng mỗi cây 0,5kg; 01 máy hàn inox hãng Amii-WS7-160.

Xử lý vật chứng:

Đối với 08 cây inox còn mới, loại 6m/1 cây, mỗi cây nặng 5,5kg; 05 cây inox, loại 6m/1 cây, mỗi cây nặng 5,5kg; 01 cây nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 4,1m trọng lượng 3,7kg 01 cây nhôm màu gỗ hệ 55 dài 6m, trọng lượng 5,5kg; 01 ống inox hình tròn 53 dài 1,7m trọng lượng 2,4kg; 01 đoạn hộp inox kích thước (0,04 x 0,08)m dài 1m, trọng lượng 2,8kg; 01 cây nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 2,7m trọng lượng 2,2kg; 01 cây đố đậu bằng nhôm màu gỗ hệ 55, dài 4,6m trọng lượng 3,3kg; 01 cây khung cánh bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 5,3m trọng lượng 4,1kg; 01 cây đố bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 3m trọng lượng 2,25kg; 01 lá nhôm màu gỗ hệ 55 dài 6m trọng lượng 2kg; 02 cây nẹp bằng nhôm màu trắng, mỗi nẹp dài 6m, trọng lượng mỗi cây 0,5kg; 01 máy hàn inox hãng Amii-WS7-160. Đây đều là tài sản của anh Hoàng Đình V nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh V.

Đối với 02 cột trụ cổng inox hình vuông được hàn từ các thanh inox còn mới, mỗi cột nặng 25kg; 01 chiếc cầu đẩy xe máy bằng inox trọng lượng 12 kg;

01 máy khoan sắt cầm tay loại 10mm, 500W hãng Black and Decker; 01 đoạn dây hàn dài 20m; 03 bộ lô sử dụng để uốn sắt, inox bằng gang, mỗi bộ nặng 10kg;

37kg sắt vụn (gồm 20kg G lấy trộm ngày 11/12/2021 và 17kg lấy trộm ngày 15/12/2021); 30kg nhôm vụn (gồm 15kg G lấy trộm ngày 13/12/2021 và 15kg lấy trộm ngày 17/12/2021); 44kg inox vụn (gồm 20kg G lấy trộm ngày 13/12/2021 và 24kg lấy trộm ngày 20/12/2021); 01 máy mài cầm tay loại DKC-KSM100B, vỏ màu đỏ; 01 máy khoan bê tông loại 12mm hãng Makita. Sau khi mua của G, anh S đã bán lại cho người khác nhưng không xác định được là ai nên không thu hồi được.

Chiếc xe đạp mini (dạng xe đạp nữ), sơn màu đỏ đã qua sử dụng là phương tiện G sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Qua xác minh chiếc xe đạp trên là tài sản của bà Vũ Thị H (là mẹ của G). Bà H không biết việc G lấy xe đạp để vận chuyển tài sản trộm cắp đi tiêu thụ. Sau khi đi trộm cắp G đã mang xe đạp về trả cho bà H nên không thu giữ.

Về trách nhiệm dân sự:

Phạm Đình G và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho anh Hoàng Đình V 9.935.000 đồng. Đối với số tài sản G đã trộm cắp của anh V chưa thu hồi được, anh V không yêu cầu G phải bồi thường. Đối với số tài sản anh S đã mua của G và đã giao nộp cho Cơ quan điều tra, anh S không có yêu cầu đề nghị bồi thường gì nên không đặt ra xem xét.

Tại Cơ quan điều tra Phạm Đình G đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Cáo trạng số 53/KSĐT ngày 19 tháng 07 năm 2022, VKSND huyện Trực Ninh đã truy tố bị cáo Phạm Đình G về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên toà:

- Bị cáo Phạm Đình G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện VKSND huyện Trực Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và bỏ điểm b của khoản 1 Điều 173 đã viện dẫn tại bản cáo trạng và đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Phạm Đình G phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Phạm Đình G từ 24 tháng đến 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Phạm Đình G đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Trực Ninh, Điều tra viên, VKSND huyện Trực Ninh, KSV trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như; Biên bản ghi lời khai của người bị hại; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng; Biên bản thu giữ vật chứng; Kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào các ngày 11/12/2021, 13/12/2021, 15/12/2021, 17/12/2021, 20/12/2021 Phạm Đình G có hành vi lén lút, bí mật đột nhập vào xưởng cơ khí của anh Hoàng Đình V tại xóm 1, T, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định trộm cắp tài sản cụ thể như sau:

Ngày 11/12/2021 trộm cắp 20 kg sắt vụn và 01 chiếc cầu đẩy tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 1.240.000 đồng. (Đối với lần phạm tội này tuy tổng giá trị tài sản trộm cắp dưới 2 triệu đồng nhưng bị can Phạm Đình G đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản chưa xóa án tích nên bị caó phải bị truy cứu theo quy định pháp luật).

Ngày 13/12/2021 trộm cắp 15kg nhôm vụn, 20 kg inox vụn, 2 cột trụ inox còn mới tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 5.515.000 đồng.

Ngày 15/12/2021 trộm cắp 17kg sắt vụn, 01 máy mài, 01 máy khoan bê tông, 01 máy khoan sắt, 01 bộ dây hàn dài 20m, 03 bộ lô; tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 1.767.000 đồng.

Ngày 17/12/2021 trộm cắp 15kg nhôm vụn, 08 cây inox còn mới, 03 cây nhôm, 01 ống inox dài 1,7m, 01 hộp inox dài 1m tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 5.904.000 đồng.

Ngày 20/12/2021 trộm cắp 24kg inox vụn, 05 cây inox còn mới; Khung nhôm, lá nhôm, nẹp bằng nhôm gồm: 01 cây đố đậu bằng nhôm màu gỗ dài 4,6m , 01 (một) cây khung cánh bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 5,3m; 01 (một) cây đố bằng nhôm màu cát cháy hệ 55 dài 3m; 01 (một) lá nhôm màu gỗ hệ 55 dài 6m; 02 (hai) cây nẹp bằng nhôm màu trắng, mỗi nẹp dài 6m, 01 (một) máy hàn inox hãng Amii-WS7-160 tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 5.753.750 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 20.179.750 đồng (Hai mươi triệu một trăm bảy chín nghìn bảy trăm năm mươi đồng).

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS như Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh đã truy tố đối với bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lấy tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp; Có tiền án: Ngày 13/07/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xử phạt 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến ngày 26/04/2020 chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên và tái phạm nên phải chịu 02 tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thời gian tạm giam bị cáo đã nhờ cán bộ điều tra tác động tới gia đình bồi thường cho người bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và đề nghị của Viện kiểm sát. HĐXX xét thấy: Về hình phạt; Cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: HĐXX xét thấy, không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm Dân sự: Bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho anh Hoàng Đình V số tiền 9.935.000 đồng. Đối với số tài sản G đã trộm cắp của anh V chưa thu hồi được, anh V không yêu cầu G phải bồi thường nên không xem xét. Đối với số tài sản anh S đã mua của G và đã giao nộp cho Cơ quan điều tra, anh S không yêu cầu bồi thường, nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

[9] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Đình G phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015;

Xử phạt bị cáo Phạm Đình G 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07 tháng 05 năm 2022.

2. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Phạm Đình G phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày; Bị cáo Phạm Đình G có quyền kháng cáo kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 59/2022/HS-ST

Số hiệu:59/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;