TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 58/2023/HS-ST NGÀY 01/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong các ngày 17/11 và 01/12 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Đ, Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh tiến hành xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2023/QĐXXST-HS ngày 26 thang 10 năm 2023.
Tại điểm cầu trung tâm gồm có: Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa, người bị hại, những người liên quan.
Tại điềm cầu thành phần gồm có bị cáo Trần Văn T và cán bộ, chiến sĩ thuộc nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Đồng Tháp:
Đối với bị cáo:
- Họ và tên: Trần Văn T, sinh ngày 25 tháng 3 năm 1992; Nơi sinh: Đồng Tháp; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Không có chỗ ở ổn định; Quốc tịch: Việt Nam;Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 01/12; Con ông: Trần Văn T1, sinh năm 1963; Con bà: Hồ Thị H, sinh năm 1961; Vợ, con: Chưa; Gia đình có 07 anh, chị, bị cáo là con thứ 05 trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 17/4/2009 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chỉ Minh xử phạt 03 năm tù về tội cướp tài sản. Chấp hành xong ngày 21/02/2011; Ngày 15/12/2011 bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội cướp tài sản. Chấp hành xong ngày 03/02/2016; Ngày 05/6/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Chấp hành xong ngày 03/11/2019 tại Trại giam C; Tạm giữ: Ngày 19/7/2023; Tạm giam: Ngày 27/7/2023; Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ (có mặt tại điểm cầu thành phần).
* Bị hại:
- Trần Thị Mỹ H1, sinh năm 1981; Địa chỉ: Khóm M, thị trấn M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Đinh Ngọc B, sinh năm 1991 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp H, xã N, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
- Nhan Thành Đ, sinh năm 1986 (vắng mặt).
Địa chỉ: Khóm D, Phường A, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
* Những người tham gia tố tụng khác:
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 18/7/2023, Trần Văn T đón xe buýt từ Phường A, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp đến chợ thị trấn M, huyện C với ý định tìm tài sản để lấy trộm. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, T phát hiện xe mô tô biển số 66F4-95xx do chị Trần Thị Mỹ H1, sinh năm 1981 ngụ khóm M, thị trấn M, huyện C đậu còn gắn chìa khóa trong xe trong khu vực chợ không có người trong coi nên T đã lén lút lấy trộm. T điều khiển xe mô tô chạy đến tiệm S Diễm thuộc Khóm D, Phường A, thành phố C do anh Nhan Thành Đ, sinh năm 1986 ngụ ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp làm chủ bán được số tiền 1.500.000 đồng. Đến ngày 19/7/2023, Công an thị trấn M, huyện C phát hiện T trở lại tiệm sửa xe Được Diễm nên mời về trụ sở làm việc thì T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Tang vật thu giữ: 01 xe mô tô biển số 66F4-95xx, kiểu dáng Wave 110 màu xanh (do anh Nhan T2 Được giao nộp).
Tại biên bản và kết luận định giá tài sản số 31/BB-HĐĐGTTHS ngày 21/7/2023 đã kết luận giá trị của 01 xe mô tô biển số 66F4-95xx, kiểu dáng Wave 110 màu xanh, số máy: HD1P53FMHY0024849, số khung: ZS110200002232 có giá trị là 4.633.000 đồng.
Đối với xe mô tô 66F4-95xx là của anh Đinh Ngọc B, sinh năm 1994 ngụ ấp H, xã N, huyện C là chủ sở hữu. Anh B là em rể chị Trần Thị Mỹ H1 ngày 18/7/2023, chị H1 mượn xe mô tô của anh B để đi chợ thì bị T lấy trộm nên ngày 31/7/2023 Cơ quan điều tra đã trao trả xe cho anh B. Về mặt dân sự anh B không yêu cầu gì thêm. Đối với số tiền 1.500.000 đồng anh Nhan Thành Đ đã mua xe mô tô 66F4-95xx anh Đ không yêu cầu T hoàn trả lại.
Trước cơ quan điều tra, bị cáo Trần Văn T đã ăn năn, hối cãi thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của bị can còn phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Tại Cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 04/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên án: Bị cáo Trần Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn T với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".
Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đề nghị Tòa tuyên như phần quyết định của bản Cáo trạng đã nêu.
* Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng và Luận tội của Viện kiểm sát đã công bố, lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và hòa nhập với cộng đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, mọi hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Trần Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh đã nêu. Có cơ sở xác định: vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 18/7/2023, bị cáo Trần Văn T lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của chị Trần Thị Mỹ H1 đã lén lút lấy trộm 01 xe mô tô biển số 66F4-95xx tại chợ M thuộc khóm M, thị trấn M, huyện C, giá trị là có giá trị là 4.633.000 đồng, nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.
Xét thấy, L khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, những người làm chứng, cùng với vật chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo là có tội, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại khoản 1 Điều 173 quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) ...
b) ...” [3] Bị cáo Trần Văn T là đối tượng đã từng vi phạm pháp luật, phải nghe phán xét của pháp luật và lĩnh án. Đáng lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học để cải sửa bản thân, tôn trọng pháp luật, sống lương thiện có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, bị cáo không làm được như vậy mà lại tiếp tục vi phạm pháp luật. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo đã thành niên, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Bị cáo thừa biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, phải chịu chế tài nhưng vì muốn có tiền tiêu xài mà không cần phải lao động, bị cáo đã chiếm đoạt tài sản của những người bị hại một cách trái phép. Hành vi của bị cáo T3 là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người bị hại được pháp luật bảo vệ. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách liều lĩnh, thực hiện vào ban ngày mà không sợ bị phát hiện chứng tỏ bị cáo rất xem thường và bất chấp pháp luật. Trong vụ án này, bị cáo đã thực hiện hoàn thành tội phạm. Bị cáo thực hiện tội phạm vì động cơ tư lợi với lỗi cố ý. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của bị cáo gây ra. Xét thấy, việc cách ly bị cáo T ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đối với bị cáo T là người đã có tiền án năm 2009, chưa được xóa án tích mà tiếp phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã giao nộp lại tài sản để trả lại bị hại; về nhân thân, bị cáo xuất thân là thành phần nhân dân lao động. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, tài sản bị mất trộm đã thu hồi trả cho những người bị hại xong. Bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm bất cứ khoản nào khác phù hợp theo quy định của pháp luật nên không đặt vấn đề giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.
[8] Về án phí: Bị cáo Trần Văn T phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
[9] Xét thấy lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”; Thời hạn tù tính từ ngày 19/7/2023.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1, Điều 21 và khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Đối với người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án văn hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 58/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 58/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về