Bản án về tội trộm cắp tài sản số 58/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 74/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 04 năm 2022 đối với:

Bị cáo: Phạm Thúy Q. Giới tính: Nữ. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 17/7/1995 tại tỉnh Lâm Đồng. Nguyên quán: Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Số CMND/Thẻ CCCD/Hộ chiếu: 250936830, cấp ngày: 02/4/2010 tại: Công an tỉnh Lâm Đồng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nguyên Tử L, Phường A, TP Đ, tỉnh Lâm Đồng. Chỗ ở: PCT, Phường B, TP Đ, tỉnh Lâm Đồng. Tiền án/tiền sự: Không. Con ông: Phan Bá Q, sinh năm: 1959. Chỗ ở: Thành phố V, tỉnh N. Con bà: Phạm Thị H, sinh năm: 1968. Chỗ ở: PCT, Phường B, TP Đ, tỉnh Lâm Đồng. Chồng: Ngô Quốc Tuấn A, sinh năm: 1991. Chỗ ở: C, XT, TP Đ, tỉnh Lâm Đồng. Con: Ngô Quốc C, sinh năm 25/10/2021. Chỗ ở: PCT, Phường B, TP Đ, tỉnh Lâm Đồng. Gia đình có 03 anh em, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1995, bị cáo là con thứ ba trong gia đình.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại 73/19 PCT, Phường B, TP Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Hành vi của Phạm Thúy Q đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Người bị hại:Bà Phạm Thị H, sinh năm: 1968; Chỗ ở: 73/19 PCT, Phường 9, TP Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Hồ Viết Th, sinh năm 1985 Địa chỉ: Số 8 Tô Ngọc V, phường P, tp Đ, tỉnh Lâm Đồng.

2/ Bà Trần Thị Th, sinh năm 1985 Địa chỉ: Số 15/1 Hai Bà Tr, phường X, tp Đ, tỉnh Lâm Đồng.

3/ Ông Trần Quốc B, sinh năm 1995 Địa chỉ: Số 101/6 Vạn H, phường A, tp Đ, tỉnh Lâm Đồng.

4/ Bà Đinh Thị Ngọc T, sinh năm 1974 Địa chỉ: Số 28/43 Hoàng Văn Th, thị trấn LN, huyện ĐứcTrọng, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thúy Q, sinh năm: 1995; HKTT: 37 Nguyên Tử Lực, Phường 8, TP Đ do làm ăn thua lỗ, cần tiền trả nợ nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của mẹ ruột là bà Phạm Thị H, sinh năm: 1968; Chỗ ở: 73/19 PCT, Phường B, TP Đ. Thực hiện ý định, vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25/12/2021, Q đi taxi đến nhà bà H tại địa chỉ 73/19 PCT, Phường 9, TP Đ, lúc này không có ai ở nhà, Q sử dụng chìa khóa có được khi sống cùng bà H mở cửa đi vào nhà. Q biết chỗ bà H thường cất chìa khóa xe mô tô nên đi vào phòng ngủ của bà H, lấy trong ngăn kéo bàn trang điểm 01 chìa khóa của xe mô tô hiệu Honda SH 125I, màu trắng đen, biển số 49B1-901.09, số khung: JF95E1000204, số máy: 9515KY000136 bỏ vào túi áo. Tiếp đó, Q thấy trong tủ có hộp màu đỏ thường sử dụng để đựng đồ trang sức, Q mở ra thì thấy 04 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng nên lấy bỏ vào túi áo mục đích đem đi bán. Sau đó, Q tìm thấy được giấy tờ của chiếc xe mô tô trên trong túi da ở đối diện bàn trang điểm, lúc này Q suy nghĩ đã lấy được giấy tờ xe nên bán xe sẽ có giá, đủ để trả nợ nên Q bỏ lại 04 chiếc nhẫn vào trong túi áo khoác của bà H treo ở gần đó. Q mang chìa khóa, giấy tờ xe ra phòng khách điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH 125I, màu đen trắng, biển số 49B1-90109 tẩu thoát .

Sau đó, Q gọi điện thoại cho anh Hồ Viết Th, sinh năm: 1985; HKTT: Bắc Ruộng, Tánh Linh, Bình Thuận; Chỗ ở: Số 8 Tô Ngọc Vân, Phường 5, TP Đ đến trước cơ sở sản xuất trà Thái Bảo, đường Lữ Gia, Phường 9, TP Đ để bán xe. Sau khi thỏa thuận, anh Th đồng ý mua xe mô tô trên với giá 71.000.0000 đồng (bảy mươi mốt triệu đồng), do không đủ tiền nên anh Th đưa cho Q 1.000.000 đồng tiền mặt; số tiền 70.000.000 đồng còn lại anh Th nhờ chị Trần Thị Thảo, sinh năm: 1985; HKTT: 15/1 Hai Bà Trưng, Phường 6, TP Đ chuyển tiền vào số tài khoản của Q, do tài khoản của Q bị lỗi nên Q đã cung cấp số tài khoản của bạn mình là Trần Quốc Bảo, sinh năm: 1995; Chỗ ở: 101/6 Vạn Hạnh, Phường 8, TP Đ để chuyển tiền vào, sau khi Bảo nhận được tiền thì Bảo đã chuyển lại tiền vào số tài khoản của Q là 0561000580968 - Ngân hàng Vietcombank (BL: 26, 27, 76- 81).

Sau khi mua được xe mô tô trên thì anh Th mang đến của hàng xe máy Huy Tín, tại địa chỉ số 294 Phan Đình Phùng, Phường 2, TP Đ bán cho chị Trần Thị Thảo, sinh năm: 1985 với giá 75.000.000 đồng (bảy mươi lăm triệu đồng).

Ngày 27/12/2021, Q đến gặp bà Phạm Thị H để nói rõ nội dung sự việc trộm cắp tài sản của mình. Sau khi nghe Q trình bày thì bà H đã lấy lại 04 nhẫn vàng trong túi áo khoác của mình và đã bán lại cho bà Đinh Thị Ngọc Tú, sinh năm 1974; HKTT: 28/43 Hoàng Văn Thụ, Liên Nghĩa, Đức Trọng, Lâm Đồng. Sau đó, Q và bà H đến Cơ quan Công an để trình bày nội dung sự việc.

* Đồ vật, tài liệu tạm giữ:

+ 01 xe mô tô hiệu SH 125I, màu trắng đen, biển số 49B1-901.09, số khung: JF95E1000204, số máy: 9515KY000136.

+ 01 giấy đăng ký xe số: 072959, tên chủ xe Phạm Thị H - Tại kết luận định giá số 234/KL-ĐG của Hội đồng định giá tài sản thành phố Đ ngày 29/12/2021 xác định: 01 xe mô tô hiệu SH 125I, màu trắng đen, biển số 49B1-90109, số khung: JF95E1000204, số máy: 9515KY000136, bị hại mới mua vào cuối năm 2020 với giá 102.000.000 đồng. Xe được đăng ký lần đầu ngày 06/12/2019, xe còn hoạt động bình thường, tỷ lệ chất lượng sử dụng đạt 80%, tương ứng giá trị còn lại là 102.000.000 x 80% = 81.600.000 đồng (tám mươi mốt triệu sáu trăm ngàn đồng).

- Tại kết luận định giá số 237/KL-ĐG của Hội đồng định giá tài sản thành phố Đ ngày 30/12/2021 xác định: 04 chiếc nhẫn kim loại màu vàng, khối lượng mỗi chiếc là 05 chỉ vàng 9999, theo khảo sát giá các cửa hàng kinh doanh vàng trên địa bàn thành phố Đ, 01 chỉ vàng có giá mua vào là 5.190.000đồng/chỉ. Vậy 04 nhẫn vàng trên tương đương 20 chỉ vàng 9999 có giá mua vào là 103.800.000 đồng (một trăm lẻ ba triệu tám trăm nghìn đồng).

* Bị hại: Bà Phạm Thị H, sinh năm: 1968; Chỗ ở: 73/19 PCTinh, Phường 9, TP Đ, tỉnh Lâm Đồng. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ đã trả lại các tài sản nêu trên cho bà Phạm Thị H.

Tại phiên tòa, Bị cáo Phạm Thúy Q không khiếu nại bản cáo trạng và khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị về hình phạt:

Đề nghị tuyên bố bị cáo Phạm Thúy Q phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Thúy Q từ 30 tháng đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 60 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người liên quan đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Vật chứng cơ quan điều tra đã trả xe máy lại cho bị hại nên không đề cập.

Lời nói sau cùng của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo ăn năn hối hận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, người liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Phạm Thúy Q là người đã trưởng thành, bị cáo biết rất rõ việc lén lút trộm cắp để chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu SH 125I, màu trắng đen, biển số 49B1-90109, số khung: JF95E1000204, số máy: 9515KY000136 của mẹ là bà Phạm Thị H nhằm bán lấy tiền trả nợ, tiêu xài là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện đến cùng.

[3] Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[4] Xét tính chất của hành vi phạm tội của bị cáo là liều lĩnh xem thường pháp luật. Để có tiền tiên xài, trả nợ bị cáo bất chấp pháp luật dùng thủ đoạn lén lút vào nhà mẹ ruột của mình là bà Phạm Thị H vào ngày 25/12/2021 để trộm cắp xe máy. Do thấy có lỗi với mẹ ruột của mình nên bị cáo đã tự nói rõ với mẹ là bà H về hành vi trộm cắp của mình và cả hai đến công an khai báo. Hành vi phạm tội của bị cáo cần xử nghiêm để răn đe giáo dục như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên Tòa.

Tuy nhiên cần xem xét bị cáo là dân lao động, bị cáo thật thà khai báo, đã khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại, bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, hiện bị cáo đang nuôi và chăm sóc con nhỏ, con bị cáo sinh ngày 25/10/2021. Bị cáo có chỗ ở ổn định nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà để bị cáo có điều kiện chăm sóc con nhỏ, rèn luyện, tu dưỡng nhằm trở thành con người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[5] Về tình tiết định khung hình phạt: Tài sản bị cáo chiếm đoạt của bà Phạm Thị H theo xác định của Hội đồng định gía tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ trị giá là 81.600.000đ, vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố bị cáo Phạm Thúy Q điểm c khoản 2 Điều 173 là có cơ sở, đúng pháp luật

[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bồi thường thiệt hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người liên quan đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì nên không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho bị hại nên không đề cập.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Trong vụ án này có anh Hồ Việt Th là người đã mua xe mô tô hiệu Honda SH 125I màu đen trắng, biển số: 49B1-901.09 của Phạm Thúy Q. Sau khi sự việc xảy ra Q đã trả lại cho anh Th số tiền 71.000.000đ (bảy mươi mốt triệu đồng) là tiền mà Q đã bán xe cho anh Th trước đó, anh Th không có yêu cầu gì thêm. Đối với chị Trần Thị Th, sau khi Cơ quan điều tra tạm giữ chiếc xe mô tô thì anh Th đã trả lại cho chị Thảo số tiền 75.000.000đ (bảy mươi lăm triệu đồng) là tiền chị Th mua xe của anh Th trước đó. Nay chị Th không có yêu cầu gì thêm. Anh Th và chị Th khi mua xe mô tô hiệu Honda SH 125I màu đen trắng, biển số: 49B1-901.09 thì không biết chiếc xe mô tô này là do phạm tội mà có nên không có cơ sở để xử lý hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thúy Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thúy Q 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 60 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 18/4/2022.

Giao bị cáo Phạm Thúy Q về Ủy ban nhân dân phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng để giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo Phạm Thúy Q có trách nhiệm phối hợp Ủy ban nhân dân phường 9, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

[2] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về việc áp dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Phạm Thúy Q phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;