Bản án về tội trộm cắp tài sản số 57/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 57/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2022/HSST-QĐ ngày 08/7/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm 1989 tại Quảng Ngãi Nơi đăng ký thường trú: Thôn Phước T, xã Bình M, huyện Bình S, tỉnh Quảng Ng. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn B, sinh năm 1965 và bà Lê Thị H, sinh năm 1963; có chồng tên Lương Văn B, sinh năm 1990; bị cáo có 01 anh ruột sinh năm 1987; bị cáo có 02 con ruột lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/3/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Những người tham gia tố tụng:

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1994 (xin xét xử vắng mặt) Trú tại: ấp Thái D, xã Tân T, huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Ph.

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1965 (vắng mặt) Trú tại: ấp Thái D, xã Tân T, huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Ph.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 45 phút ngày 18/3/2022, chị Nguyễn Thị Thu Th đi nhờ xe mô tô của một thanh niên (không rõ lai lịch) đến quán tạp hóa tại tổ 36, ấp Thái D, xã Tân T, huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Ph để mua đồ. Ngay lúc này, Nguyễn Thị Thu H điều khiển xe mô tô biển số: 93P2- X chở mẹ là bà Nguyễn Thị H1 va chạm với xe mô tô (không rõ biển số) của người đàn ông (không rõ lai lịch) phía trước quán tạp hóa. Th quan sát nhìn thấy 02 (hai) điện thoại di động để ở hộc đựng đồ phía trước xe mô tô của H nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Lợi dụng sự việc lộn xộn đông người, Th lén lút lấy trộm 02 điện thoại di động của Th thì bị Nguyễn Thị H1 phát hiện nên đã bắt giữ Th cùng tang vật, giao cho Công an xã Tân Tiến xử lý. Cùng ngày, Công an xã Tân Tiến đã báo cáo, chuyển giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Phú thụ lý theo thẩm quyền. Tại cơ quan điều tra, Th khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG ngày 21/3/2022 của Hội đồng định giá tố tụng hình sự huyện Đồng Phú, kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh có giá trị là 5.600.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng có giá 4.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt 9.600.000 (chín triệu sáu trăm nghìn) đồng.

Ngày 07/4/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Phú đã thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu Nguyễn Thị Thu H: 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng. Bị hại không có ý kiến, yêu cầu gì.

Tài sản thu giữ trong vụ án: Thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng.

Tại Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Thu Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” như Cáo trạng đã tuy tố bị cáo. Sau khi phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm, tính chất mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, năng lực trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu Th phạm tội “Tội trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 50, 54 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu Th thời hạn phạt tù bằng thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là 04 tháng 01 ngày tù. Đề nghị tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Thị Thu Th.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận được tài sản và không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo, quá trình xét hỏi xác định được không sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tuyên trả lại cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với Bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh cũng như hình phạt.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được về với gia đình chăm lo nuôi dưỡng con nhỏ và làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, các hành vi, quyết định của cơ quan điều tra Công an huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Khoảng 07 giờ 45 phút ngày 18/3/2022 lợi dụng lúc chị Nguyễn Thị Thu H và bà Nguyễn Thị H1 xảy ra tai nạn, bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm hai điện thoại di động hiệu OPPO của chị H nhưng bị phát hiện và bắt giữ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung của Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú đã truy tố, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng; phù hợp với tang vật thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi công khai tại phiên tòa. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[4] Khi phạm tội, bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng hành vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự; bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ngoài ra còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có đủ tác dụng giáo dục, cải tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tính tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại; trình độ học vấn thấp hạn chế hiểu biết pháp luật; hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo đang nuôi 02 con nhỏ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Xét thấy, bị cáo có trên 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự; tính đến thời điểm xét xử bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 04 tháng 01 ngày, thời gian bị cáo bị tạm giam cũng đảm bảo để răn đe, giáo dục bị cáo nên xét không cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần xử phạt bị cáo thời hạn tù bằng thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam. Do bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác nên cần tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo theo quy định tại Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[8] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước đề nghị về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về trách nhiệm dân sự là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu Th phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu Th phạm tội Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 173; Điều 38, Điều 50, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu Th 04 (bốn) tháng 01 (một) ngày tù. Thời hạn tù bằng thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam.

Tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Thị Thu Th.

- Về trách nhiệm dân sự: Không.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Thu Th 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu Th phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, bản sao bản án hoặc niêm yết tại Ủy ban nhân dân nơi thường trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 57/2022/HS-ST

Số hiệu:57/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Phú - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;