Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 56/2023/HS-ST NGÀY 28/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 3 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2023/TLST-HS ngày 02/3/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2023/QĐXXST-HS ngày 14/3/2023 đối với bị cáo:

Tạ Hồng N, sinh năm 1996; Hộ khẩu thường trú: thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tạ Hồng Vân, sinh năm 1967; con bà: Tạ Thị Ái, sinh năm 1971. Gia đình có 02 anh em; bị cáo là con thứ 2; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Tại Bản án số 316/2022/HSST ngày 30/12/2022 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội xử phạt: 10 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản (phạm tội ngày 24/10/2022).

Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại giam Thanh Lâm - Thanh Hóa thuộc Cục C10 Bộ Công an. Bị cáo có mặt tại phiên tòa Bị hại vắng mặt: Chị Pờ Thị Thu A, sinh năm 2000. HKTT: Thôn C, xã T, huyện L, tỉnh B. (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tạ Hồng N là đầu bếp. Sáng ngày 07/10/2022, Tạ Hồng N đến cửa hàng bán cơm của chị Pờ Thị Thu A, sinh năm 2000; Trú tại: xã Trung Kênh, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc N tại địa chỉ: số 06, ngõ 1 Đại học Hà Nội, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để xin việc và được chị An nhận vào làm vị trí đầu bếp. N làm việc đến khoảng 20 giờ 40 phút cùng ngày thì xin phép chị An ra ngoài để mua đồ dùng cá nhân, chị An đồng ý. Lúc này N đang đứng trong bếp và quan sát thấy trên bàn có 01 chiếc điện thoại di động Iphone 12 Promax của chị An để quên nên đã nảy sinh ý định lấy trộm chiếc điện thoại trên để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Do trong bếp còn có anh Trần Đại D, sinh năm 1997; Trú tại: Trần Đăng N, thành phố Nam Định, Nam Định – nhân viên phụ bếp) đang làm việc nên N đợi khi anh D đi ra khỏi bếp, N đã dùng tay trái lấy chiếc điện thoại Iphone 12 Promax của chị An đang để trên bàn và cho vào túi quần trái đang mặc rồi đi ra khỏi cửa hàng. N sau đó tắt nguồn điện thoại rồi bắt xe ôm đi đến khu vực Đình Thôn, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để chơi game, trên đường đi, N đã vứt bỏ sim điện thoại để tránh bị phát hiện. N sau đó tìm kiếm trên mạng internet người thu mua điện thoại Iphone bị khoá Icloud thì tìm được 01 số điện thoại (N không nhớ số điện thoại) nhận mua. N liên lạc với người này và thoả thuận bán chiếc Iphone 12 Promax với giá 6.500.000 đồng. Đến khoảng 09 giờ ngày 08/10/2022, N gặp 01 người đàn ông lạ mặt và bán chiếc điện thoại cho người này được 6.500.000 đồng. Số tiền bán điện thoại N đã tiêu sài cá nhân hết.

Chị Pờ Thị Thu A sau khi không thấy N quay lại về, định lấy điện thoại gọi cho N thì phát hiện bị mất. Chị An xem lại hình ảnh camera trong bếp thì thấy trước khi ra ngoài, N đã có hành vi trộm cắp chiếc điện thoại của chị nên ngày 20/10/2022, chị An đến Công an phường Trung Văn trình báo sự việc trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 369/KL – KTHS ngày 09/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, kết luận:

- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax, dung lượng 256Gb, màu vàng, số IMEI: 3561944449675801, đã qua sử dụng, mua ngày 31/3/2022 có giá trị là: 17.600.000 đồng.

- 01 sim điện thoại số 0973.936.0xx có giá trị là: 25.000 đồng.

Đối với vật chứng vụ án: là 01 chiếc điện thoại Iphone 12 Promax, 256Gb, màu vàng, số IMEI: 3561944449675801, gắn sim số 0973.936.0xx, Cơ quan CSĐT Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định truy tìm, nhưng hiện chưa thu hồi được.

Ngày 24/10/2022, Tạ Hồng N tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động Iphone 12 Promax (trị giá 15 triệu đồng) trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm và bị phát hiện bắt giữ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam N về hành vi Trộm cắp tài sản tại địa bàn Bắc Từ Liêm.

Quá trình điều tra, bị caó Tạ Hồng N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người liên quan, với Kết luận định giá tài sản và những tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Đối với người đàn ông mua lại điện thoại do N trộm cắp được (như N khai), quá trình điều tra do không xác định được lai lịch địa chỉ và số điện thoại người này sử dụng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

Về dân sự: Chị Pờ Thị Thu A yêu cầu Tạ Hồng N bồi thường số tiền 20.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 45/CT-VKSNTL ngày 28/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Tạ Hồng N về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Tạ Hồng N khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo thừa nhận lợi dụng sơ hở của bị hại để trộm cắp tài sản và đem đi bán lấy tiền tiêu sài.

Đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng số 45/CT-VKSNTL ngày 28/02/2023 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử bị cáo Tạ Hồng N từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp bản án số 316/2022/HSST ngày 30/12/2022 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của cả 02 bản án là từ 22 tháng tù đến 27 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2022.

Về dân sự: Ghi nhận việc bị cáo đồng ý bồi thường cho chị Pờ Thị Thu A số tiền 20.000.000 đồng theo yêu cầu của chị An Lời nói sau cùng bị cáo N đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các biên bản, tài liệu khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 20 giờ 40 phút ngày 07/10/2022, tại phòng bếp của quán cơm có địa chỉ: số 6, ngõ 1 Đại học Hà Nội, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Tạ Hồng N đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax, 256Gb, màu vàng, số IMEI 3561944449675801, đã qua sử dụng gắn 01 sim điện thoại số 0973.936.0xx, tổng trị giá 17.625.000 đồng của chị Pờ Thị Thu A.

Hành vi nêu trên của bị cáo N đã phạm tội Trộm cắp tài sản, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo N là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, lợi dụng sơ hở của bị hại để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, bị cáo đã bị xét xử hành vi trộm cắp tài sản cụ thể: Bản án số 316/2022/HSST ngày 30/12/2022 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội xử phạt: 10 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản (phạm tội ngày 24/10/2022) nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Khi lượng hình phạt, xét bị cáo N tại phiên tòa khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, bị cáo N còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung, tuy nhiên bị cáo là đối tượng không nghề nghiệp, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về dân sự: Ghi nhận việc bị cáo tự nguyện bồi thường cho chị Thu An số tiền 20.000.000 đồng.

[7] Về án phí: Bị cáo N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

[8] Về kháng cáo: Bị cáo N, bị hại trong vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; Điều 38; Điều 56; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Tạ Hồng N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Tạ Hồng N 12 (Mười hai) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 10 tháng tù của Bản án số 316/2022/HSST ngày 30/12/2022 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2022.

Về dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 357;

khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 Ghi nhận bị cáo tự nguyện bồi thường cho chị Pờ Thị Thu A số tiền 20.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo Tạ Hồng N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2023/HS-ST

Số hiệu:56/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;