Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 56/2023/HS-ST NGÀY 26/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2023/HPT-HS ngày 15 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Huy P, sinh năm 1980 tại Bình Thuận;

Nơi cư trú: Khu phố 5, phường Tân An, thị xã L, tỉnh Bình Thuận;

Chỗ ở hiện nay: Thôn Tân Lý 2, xã Tân Bình, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn D, sinh năm 1937 (chết); Mẹ: Lê Thị Kim H, sinh năm 1946; Gia đình có 04 anh, em; bị cáo là con thứ 3; Vợ: Lê Thị T, sinh năm 1994 Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Bản án số: 06/2010/HSST ngày 28.01.2010, Nguyễn Huy P bị Tòa án nhân dân thị xã L tuyên phạt 09 tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng. Hiện đã được xóa án tích.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Ông Nguyễn Quốc D – sinh năm 1982. Vắng mặt.

HKTT: Khu phố 10, phường Phước Hội, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 15 phút ngày 18.01.2023, bị cáo Nguyễn Huy P điều khiển xe mô tô chạy trên đường Thống Nhất để đi công việc. Khi đến khu phố 10, phường Phước Hội, thị xã L thì xe mô tô bị hư, bị cáo P dẫn xe mô tô vào tiệm sửa xe của ông Nguyễn Quốc D để sửa thì trong tiệm sửa xe không có ai. Lúc này, bị cáo P nhìn thấy chiếc điện thoại Iphone 12 Pro Max của ông D đang để trên bàn nên nảy sinh ý định lấy trộm. Thực hiện ý định này, bị cáo P đi đến lấy chiếc điện thoại bỏ vào trong túi quần của mình rồi dẫn xe bỏ đi. Sau khi lấy trộm được điện thoại, bị cáo P đem tới phòng 102 (chỗ P đang thuê nghỉ) của Khách sạn M. H ở khu phố 10, phường Phước Hội để cất giấu. Đến ngày 19.01.2023, Công an phường Phước Hội mời bị cáo đến làm việc thì bị cáo P đã thừa nhận hành vi trộm cắp chiếc điện thoại của ông D. Công an phường Phước Hội đã thu giữ được chiếc điện thoại di động Iphone 12 Pro Max rồi chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L để xử lý theo thẩm quyền.

*Tại Kết luận định giá tài sản số: 03/KL-ĐGTS ngày 07/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã La Gi, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max màu vàng, 256 G, Imei 352850794976136, đã qua sử dụng, còn hoạt động, có giá trị là 14.000.000 đồng.

Về vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Iphone12 Pro Max, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L đã trả cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Quốc D vào ngày 07/02/2023.

Về dân sự: Sau khi bị hại Nguyễn Quốc D nhận lại tài sản thì không yêu cầu gì về phần dân sự.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân của bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng số: 58/CT-VKSLG-HS ngày 17/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Nguyễn Huy P, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Huy P, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy P từ: 09 đến 12 tháng tù.

- Ý kiến của bị cáo Nguyễn Huy P: Đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên, nên không có ý kiến tranh luận.

* Bị cáo Nguyễn Huy P nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự có mặt của người tham gia tố tụng tại phiên tòa: Bị hại ông Nguyễn Quốc D vắng mặt. Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo là đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy, việc vắng mặt của bị hại không gây trở ngại cho việc xét xử, vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội: Xét thấy, lời khai của bị cáo Nguyễn Huy P tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở và căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử kết luận: Vào khoảng 10 giờ 15 phút ngày 18/01/2023, tại khu phố 10, phường Phước Hội, thị xã L, bị cáo Nguyễn Huy P đã lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max trị giá 14.000.000 đồng của ông Nguyễn Quốc D. Sau đó, bị cáo P đem đến Phòng 102 của Khách sạn M. H để cất giấu. Đến ngày 19.01.2023, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Huy P bị phát hiện, Công an phường Phước Hội đã thu giữ tang vật rồi chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L để xử lý theo thẩm quyền.

Qua đó cho thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Huy P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Nguyễn Huy P về tội danh, điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo Nguyễn Huy P đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của người khác để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, do đó hành vi của bị cáo là xem thường pháp luật, ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa phương và nguy hiểm cho xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không; Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo P thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo đã nhận thức rõ được “Trộm cắp tài sản” của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi ích bản thân, bị cáo bất chấp. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo lao động, học tập, giáo dục trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã giải quyết xong.

[9] Về dân sự: Quá trình điều tra đã giải quyết xong.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Huy P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Huy P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo Nguyễn Huy P bị bắt thi hành án phạt tù.

Về án phí:

Bị cáo Nguyễn Huy P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Huy P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/6/2023). Riêng bị hại ông Nguyễn Quốc D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2023/HS-ST

Số hiệu:56/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;