Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 56/2023/HS-PT NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận, xét xử công khai phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 46/2023/TLPT-HS, ngày 06 tháng 4 năm 2023 do Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2023/HS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2023/QĐXXPT-HS ngày 10 tháng 5 năm 2023 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 10/2023/TB-TA ngày 15 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: NGUYỄN THỊ THÙY T, sinh năm: 1976; tại: Long An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: 208C đường T, Phường 12, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Cha mẹ ruột: không rõ; Mẹ nuôi: Nguyễn Thị H, sinh năm 1938; Chồng con: chưa có; Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 30/3/2022 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự phúc thẩm số 108/2022/HSPT. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/6/2022;

Nhân thân:

+ Ngày 26/9/2002, bị Cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”. Đình chỉ điều tra theo Quyết định đình chỉ điều tra số 07 ngày 14/10/2002;

+ Ngày 22/9/2009, bị Cơ quan CSĐT Công an quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”. Đình chỉ điều tra theo Quyết định đình chỉ điều tra số 01 ngày 28/12/2009;

+ Ngày 16/11/2009, bị Cơ quan CSĐT Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”. Đình chỉ điều tra theo Quyết định đình chỉ điều tra số 01 ngày 10/12/2009;

+ Ngày 02/10/2013, bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”. Đình chỉ điều tra theo Quyết định đình chỉ điều tra số 02 ngày 28/11/2013;

+ Ngày 23/5/2016, bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Đạ Téh, tỉnh Lâm Đồng khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”. Đình chỉ điều tra theo Quyết định đình chỉ điều tra số 06 ngày 20/7/2016;

+ Ngày 22/01/2017, bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tân An, tỉnh Long An khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”. Đình chỉ điều tra theo Quyết định đình chỉ điều tra số 01 ngày 18/01/2018;

+ Ngày 10/4/2020, bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”. Đình chỉ điều tra theo Quyết định đình chỉ điều tra số 36 ngày 02/7/2020;

Bị cáo bị bắt ngày 08/7/2022, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện H; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

-Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Hồ Ngọc Hiền T- Văn phòng luật sư T; địa chỉ: 213A X, Phường 13, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt - Bị hại: Ông Dương Văn Đ, sinh năm 1969. Nơi cư trú: khu phố 03, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 09 giờ ngày 04/7/2022, Nguyễn Thị Thùy T, sinh năm 1976 (HKTT: 208C đường T, phường 12, Quận B, Tp. Hồ Chí Minh) thuê xe của hãng xe Taxi Mai Linh do tài xế Võ Xuân Dg điều khiển chở đến địa bàn tỉnh Bình Thuận, mục đích để tìm tài sản có sơ hở để lấy trộm. Khi đến khu trung tâm hành chính của huyện H thì T yêu cầu tài xế quay đầu xe ở vòng xoay trung tâm hành chính đến trước cổng chính của Huyện ủy H thuộc khu phố 02, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Lúc này, T xuống xe và mang theo túi đựng hồ sơ nhằm mục đích giả danh là cán bộ liên hệ công tác để tránh bị phát hiện rồi T đi bộ đến tầng 1 của tòa nhà Huyện ủy H thì thấy trong phòng họp đang tổ chức hội họp nên T đi đến phòng làm việc của Bí thư huyện ủy; khi quan sát không có người, T mở cửa đi vào bên trong để tìm tài sản lấy trộm nhưng không có nên T tiếp tục qua phòng làm việc của ông Dương Văn Đ - là Phó Bí thư Huyện ủy H; thấy trong phòng cũng không có người, T mở cửa lẻn vào bên trong phòng, đi đến mở cửa tủ đựng hồ sơ thấy một chiếc cặp màu nâu, mở bên trong cặp có một ví da màu đen và số tiền 10.000.000 đồng được kẹp trong tờ giấy A4, T lấy số tiền 10.000.000 đồng gồm 20 tờ mệnh giá 500.000 đồng và chiếc ví màu đen bỏ vào trong túi đựng hồ sơ rồi đi ra ngoài đi bộ xuống tầng trệt rồi đi vào nhà vệ sinh nam của dãy tầng trệt. Tại đây, T mở ví da ra lấy hết số tiền 8.000.000 đồng trong các ngăn của ví, lấy 01 bì thư màu đỏ bên trong có số tiền 5.000.000 đồng, loại tiền mệnh giá 500.000 đồng, sau đó T ném bao thư màu đỏ và chiếc ví có chứa giấy tờ cá nhân của ông Dương Văn Đ vào trong bồn chứa nước của bồn cầu của phòng vệ sinh đầu tiên rồi đi bộ ra chỗ xe taxi đang đợi trước cổng và lên xe tẩu thoát.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tâm thần số 772/KL-VPYTW ngày 05/12/2022 của Viện pháp y tâm thần trung ương Biên Hòa, kết luận:

+ Về y học: trước, trong, sau khi gây án và hiện nay: đương sự bị bệnh tâm thần phân liệt thể không biệt định thuyên giảm hoàn toàn (F20.35 – ICD.10)

+ Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Tại thời điểm gây án và hiện nay: đương sự đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

* Vật chứng vụ án gồm:

+ Số tiền 17.518.000 đồng thu giữ trên người Nguyễn Thị Thùy T; Hiện đã trả cho chủ sở hữu là ông Dương Văn Đ.

+ 01 chiếc ví da màu đen, trong ví có các giấy tờ gồm: 01 thẻ đảng viên số 35002980; 01 giấy phép lái xe số 600038011476; 01 giấy CCCD số 051069019226; 01 giấy CMND số 261030452; 01 thẻ BHYT có mã số HC 4604697006172. Tất cả các giấy tờ đều mang tên ông Dương Văn Đ. Hiện đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Dương Văn Đ.

+ 01 túi đựng hồ sơ bằng nhựa có chứa nhiều loại giấy tờ; 01 máy tính bảng hiệu Samsung màu đen, có gắn ốp lưng màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu iPhone X màu đen; 01 điện thoại di động iPhone 5 màu vàng; 01 CCCD 080176000035 mang tên Nguyễn Thị Thùy Trang do Cục Cảnh sát ĐKQL cư trú và DLQG về dân cư cấp ngày 07/8/2017; 01 thẻ ngân hàng VietinBank số 9704151500284147 mang tên Nguyễn Thị Thùy T, là tài sản cá nhân không liên quan đến vụ án. Cơ quan CSĐT công an huyện Hàm Tân đã trả lại cho Nguyễn Thị Thủy T.

+ 01 áo thun ngắn tay màu cam có cổ áo màu đen có ghi chữ “an phuoc” bên trong cổ áo, 01 quần jean đen dài màu xanh đen; là trang phục Nguyễn Thị Thùy T mặc khi thự hiện hành vi trộm cắp, thu giữ tại nhà T. Đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện H quản lý chờ xử lý.

+ 02 USB màu đen hiệu Sandisk loại dung lượng 16GB bên trong chứa dữ liệu hình ảnh liên quan đến vụ trộm cắp tài sản do Nguyễn Thị Thùy T thực hiện. Chuyển kèm theo hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân huyện H.

* Về phần dân sự: Ông Dương Văn Đ yêu cầu Nguyễn Thị Thùy T bồi thường số tiền 5.482.000 đồng nhưng bị cáo T chưa bồi thường.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2023/HS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thuỳ T, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thuỳ T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày 08/7/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 02 tháng 3 năm 2023, bị cáo Nguyễn Thị Thùy T kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để có thời gian điều trị bệnh tâm thần.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Ý kiến của Kiểm sát viên: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người và đúng tội. Hình phạt của cấp sơ thẩm đối với bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới đó là bị cáo đã nộp toàn bộ số tiền còn lại để khắc phục hậu quả cho người bị hại; mẹ bị cáo hiện nay bị bệnh rất nặng cần có người chăm sóc. Vì vậy, đề nghị xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt, giảm cho bị cáo từ 03 tháng đến 06 tháng tù cũng đủ để giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Chủ thể kháng cáo, thời hạn kháng cáo, hình thức đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thùy T phù hợp với quy định pháp luật, nên có cơ sở để được xem xét theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 04/7/2022, Nguyễn Thị Thùy T thuê xe taxi Mai Linh do tài xế Võ Xuân D, điều khiển chở đến địa bàn tỉnh Bình Thuận, mục đích để tìm tài sản sơ hở để lấy trộm. Khi đến khu trung tâm hành chính của huyện Hàm Tân thì T xuống xe đi bộ vào toà nhà Huyện ủy H và mang theo túi đựng hồ sơ nên đã gây ra sự nhầm lẫn bị cáo là cán bộ đến liên hệ công tác để vào được các phòng làm việc của toà nhà Huyện ủy H. Khi T đi đến phòng làm việc của ông Dương Văn Đ - là Phó Bí thư Huyện ủy H, thấy trong phòng không có người, T mở cửa lẻn vào bên trong phòng, đi đến mở cửa tủ đựng hồ sơ thấy một chiếc cặp màu nâu, mở bên trong cặp có một ví da màu đen và số tiền 10.000.000 đồng được kẹp trong tờ giấy A4; T lấy số tiền 10.000.000 đồng và chiếc ví màu đen, bên trong các ngăn của ví có số tiền 8.000.000 đồng và 01 bì thư màu đỏ bên trong có số tiền 5.000.000 đồng. Tổng số tiền Nguyễn Thị Thùy T chiếm đoạt là 23.000.000 đồng (Hai mươi ba triệu đồng).

Hành vi của bị cáo là cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Nên việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, là có căn cứ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi; xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng (tái phạm), giảm nhẹ (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải), cũng như nhân thân của bị cáo. Mức hình phạt này đủ để trừng trị, giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật; các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp đủ số tiền mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại; theo kết luận giám định pháp y tâm thần thì bị cáo bị bệnh “bị bệnh tâm thần phân liệt thể không biệt định thuyên giảm hoàn toàn (F20.35 – ICD.10)” nên cũng có phần nào bị hạn chế khả năng nhận thức, điều khiển hành vi; mẹ bị cáo hiện đang bị bệnh ung thư giai đoạn cuối cần người chăm sóc; đây những tình tiết giảm nhẹ chưa được cấp sơ thẩm áp dụng và mới phát sinh ở cấp phúc thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử khi quyết định hình phạt cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại; bị cáo bị bệnh tâm thần phân liệt nên có phần nào cũng bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; mẹ bị cáo hiện đang bị bệnh ung thư giai đoạn cuối cần người chăm sóc; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, q khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Từ nhận định trên, có thể xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Từ phân tích trên, xét thấy quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tham gia phiên tòa, đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp và có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí phúc thẩm: do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thùy T. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2023/HS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H.

2. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị Thùy T, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

3. Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, s, q khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

4. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thuỳ T 01 (một) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày 08/7/2022.

5. Về án phí phúc thẩm: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thị Thùy T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

6. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2023/HSST ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 5.482.000 đồng (Năm triệu bốn trăm tám mươi hai ngàn đồng) của bị cáo Nguyễn Thị Thùy T theo biên lai thu tiền số 0004604 ngày 05/5/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H để bảo đảm thi hành án.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án ngày 30 tháng 5 năm 2023.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2023/HS-PT

Số hiệu:56/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;