Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 53/2021/HS-ST NGÀY 22/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Văn S – sinh năm 1992 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Ô 12, lô 39 đường Đ, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Văn M (chết) và con bà Lê Thị H (sinh năm 1963); tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị tạm giữ từ ngày 30/10/2020 đến ngày 08/11/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1/ Nguyễn Phạm Minh T – sinh năm 2001.

Trú tại: Đội 4 P, xã D, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

2/ Huỳnh Thị Kim Ng – sinh năm 2001.

Trú tại: Thôn 1, xã D, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Nguyễn Văn H – sinh năm 1960.

Trú tại: Số 710 đường N, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

2/ Khổng Trùng D – sinh năm 1984.

Trú tại: Ô 12, Lô 505A, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

(Tất cả người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 29/10/2020, Văn S điều khiển xe máy hiệu CITI, màu đỏ, biển kiểm soát: 79F3-X đi trên đường Ph, phường V, thành phố N với mục đích xem ai sơ hở thì trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu dùng cá nhân. Khi đi đến khu vực bãi đá (bên cạnh quán cà phê sách H) bờ biển H, phường V, thành phố N, S phát hiện thấy anh Nguyễn Phạm Minh T (sinh năm: 2001, trú tại: đội 4 P, xã D, huyện K, tỉnh Khánh Hòa) cùng chị Huỳnh Thị Kim Ng (sinh năm:

2001, trú tại: thôn 1, xã D, huyện K, tỉnh Khánh Hòa) đang ngồi nói chuyện. Anh T có để 01 ba lô màu đen bằng vải có ghi dòng chữ Thủ Đô Vàng, bên trong có 01 giấy phép lái xe; 01 giấy đăng ký xe mô tô, biển kiểm soát: 79D1-X và 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Nguyễn Phạm Minh T; 01 áo nam bằng vải caro, màu trắng-xám; số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy J7 Prime 32GB, màu vàng và 01 ví đựng tiền nam, chất liệu kiểu da, màu đen có ghi dòng chữ ARMANI. Chị Ng có để 01 ba lô màu đen có ghi dòng chữ LEAGUEEGENDS, bên trong có 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A50, màu xanh 128GB; 01 ví đựng tiền nữ, bằng vải dạng thổ cẩm, hình chữ nhật; 01 giấy phép lái xe và 01 thẻ sinh viên đại học đều mang tên Huỳnh Thị Kim Ng. Ba lô của anh T, chị Ng để bên cạnh nhau trên tảng đá phía sau lưng của anh T, chị Ng. Lợi dụng lúc anh T và chị Ng đang ngồi nói chuyện, sơ hở không quản lý tài sản, S đã lén lút lấy trộm 02 ba lô trên rồi bỏ đi.

Sau khi lấy trộm được 02 ba lô trên, S điều khiển xe máy hiệu CITI, biển kiểm soát: 79F3-X đi đến khu vực công viên YS, đường Ph, phường V, thành phố N để lục lấy tài sản trong 02 ba lô vừa trộm cắp được. S lục ba lô của chị Ng lấy 01 điện thoại di động SamSung A50, 01 ví nữ dạng bằng vải thổ cẩm, hình chữ nhật, số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng); 01 giấy phép lái xe và 01 thẻ sinh viên đại học đều mang tên Huỳnh Thị Kim Ng rồi bỏ vào trong ba lô của anh T, còn ba lô của chị Ng bỏ lại bên vườn cây tại công viên YS. Sau đó, S cầm 02 điện thoại di động vừa trộm cắp được đi đến cửa hàng điện thoại H tại số: 710 đường N phường V, thành phố N để mở khóa điện thoại. Trong lúc chờ lấy 02 điện thoại di động đang mở khóa, S đi đến quán S2M Gaming số: 86 đường Đ, phường V, thành phố N chơi game. Khoảng 30 phút sau, khi S đang dắt xe máy để đi về cửa hàng điện thoại H lấy điện thoại mở khóa trước đó thì bị chị Ng và anh T phát hiện giữ S lại, sau đó đến Công an phường V, thành phố N trình báo sự việc. Công an phường V, thành phố N đã mời S về trụ sở để làm việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 473/KL-HĐĐGTS ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nha Trang kết luận:

+ 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy J7 Prime, màu vàng, 32GB có giá trị là: 1.235.000 đồng (một triệu hai trăm ba mươi lăm nghìn đồng)

+ 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A50, màu xanh, 128GB có giá trị là: 2.650.000 đồng (hai triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

Tổng giá trị tài sản là: 4.085.000 đồng (bốn triệu không trăm tám lăm ngàn đồng (3.885.000 đồng và 200.0000 đồng tiền mặt).

+ Đối với (01 balo chất liệu vải màu đen, có ghi dòng chữ Thủ Đô Vàng; 01 ba lô chất liệu vải màu đen, có ghi dòng chữ LEAGUEEGENDS; 01 áo nam bằng vải caro, màu trắng-xám không có nhãn hiệu; 01 ví đựng tiền nữ, bằng vải dạng thổ cẩm, hình chữ nhật và 01 ví đựng tiền nam, chất liệu kiểu da, màu đen có ghi dòng chữ ARMANI, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã có công văn số: 5196 ngày 20/11/2020 yêu cầu định giá tài sản gửi Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nha Trang. Ngày 14/12/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nha Trang có công văn số 528/HĐĐG về từ chối định giá tài sản vì số tài sản trên không thể hiện nguồn gốc xuất xứ, chủng loại của tài sản, không thể hiện năm tháng và không có tài liệu chứng từ liên quan. Vì vậy, không có cơ sở để định giá.

Tại bản Cáo trạng số 42/CT-VKSVN ngày 27 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố để xét xử Văn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như truy tố của bản cáo trạng.

- Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Văn S theo tội danh, khung hình phạt như trên và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Văn S từ 04 (bốn) đến 06 (sáu) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên hồ sơ vụ án thể hiện, anh Nguyễn Phạm Minh T, chị Huỳnh Thị Kim Ng và anh Khổng Trùng D đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Toàn bộ vật chứng vụ án đã được Cơ quan điều tra xử lý, trả lại cho chủ sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nha Trang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình tiến hành tố tụng bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tố tụng tại phiên tòa: Tại phiên tòa, bị hại anh Nguyễn Phạm Minh T và chị Huỳnh Thị Kim Ng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn H và anh Khổng Trùng D đều vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai tại hồ sơ vụ án. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng trên.

[3] Về trách nhiệm hình sự và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận về hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, có đầy đủ sức khỏe nhưng không chịu lao động mà cố ý thực hiện hành vi trộm cắp nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có thời gian thực hiện nghĩa vụ quan sự và được người bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt, nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 54 của Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên hồ sơ vụ án thể hiện, người bị hại anh Nguyễn Phạm Minh T, chị Huỳnh Thị Kim Ng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Khổng Trùng D đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án: Toàn bộ vật chứng vụ án đã được Cơ quan điều tra Công an thành phố Nha Trang trả lại cho chủ sở hữu.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 54 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Văn S 04 (bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí và lệ phí tòa án;

Buộc bị cáo Văn S phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2021/HS-ST

Số hiệu:53/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;